Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

[Nháp]


Vấn đề chung của thế giới này là tất cả mọi người đều hi vọng một giải pháp kỳ diệu cho vấn đề của họ nhưng rốt cục, chẳng ai thực sự  tin vào phép thuật. Dù sao, đó cũng chỉ là vấn đề của “thế giới này”, và bạn không thể biết người ở “thế giới khác” tin vào điều gì.
Đã có rất nhiều cuộc tranh luận, báo cáo khoa học, vài cuộc chiến mang tính công kích và vô số giấy mực bị lãng phí chỉ để cố chứng tỏ phép thuật không tồn tại ở Hanover – một vùng đất (hay một chiều không gian khác) mà quân đội Hoàng gia Anh tìm ra cách đây chưa đầy hai trăm năm. Cuối cùng, khi lý luận khoa học đã không còn thích hợp ở “thế giới khác” thì người ta mới chịu công nhận giới hạn của trí tưởng tượng, sự tồn tại của phép thuật hay những thứ không tên khác ở vùng đất thiên đường này. Hoàng gia Anh quyết định Hanover là bí mật và sẽ mãi mãi là bí mật. Vì thế, con người ở đây không nhiều, có lẽ chỉ xấp xỉ 1000 trong đó chủ yếu là hoàng thân, lính không quân và không tặc.
Sự xuất hiện của không tặc là câu chuyện bắt đầu từ những quý tộc thích phiêu lưu. Họ chu du khắp Hanover bằng loại tàu đóng bằng gỗ như tàu hải quân, chỉ có điều nó có thêm sải cánh, cánh quạt trước sau và bay trên trời nhờ mảnh vỡ của ngôi sao xanh. Những kẻ nhập cư trái phép lợi dụng cách đó để cướp phá của cải của thần lùn, yêu tinh, tiên vườn, phù thùy, ma cà rồng…Không tặc, xét về khởi đầu hoàn toàn chẳng có gì xấu xa, cuối cùng lại sinh ra sự phủ định của chính nó.  
Hanover ở thời điểm hiện tại vẫn hoang sơ và kỳ diệu hệt như ngày đội của người lính nọ tình cờ phát hiện ra nó. Tuy nhiên, có nhiều mối quan hệ đã thay đổi từ khi con người xuất hiện ở đây. Không quân có nhiệm vụ chống lại không tặc với nguyên tắc tuyệt đối là không bao giờ hợp tác với chúng. Lính không quân nghĩ như vậy là hoàn toàn đúng đắn, nhưng đó hóa ra lại là cái nhìn phiến diện bởi chính họ chưa từng sống trong thế giới ấy nên chẳng thể biết gì nhiều hơn mà đánh giá.
Câu chuyện dưới đây được ghi lại từ tàu một không tặc không hoàn toàn đặc biệt hay xuất chúng. Tuy nhiên, những chuyến phiêu lưu của con tàu đó thì chẳng bao giờ có thể quên được.
Chương 1. Lanebrook và vị khách không mời
- Hạ buồm chính, giảm tốc độ, chuẩn bị cập cảng.
 El Levy đứng trên thang leo lên cột buồm, hét lớn. Giọng điệu và bộ dạng của cô ta lúc đó, có thể nói là khá điên rồ. Tuy nhiên, đó không hẳn là một cách thể hiện thường xuyên của cô.
- Cô nghĩ gì khi cập cảng ở Lanebrook ? Jeremy khoác vai Levy khi cô vừa nhảy trên thang xuống. – Khả năng bỏ mạng của cô tại đó khá cao đấy. Những kẻ sống sót được ở đó đều không ngớ ngẩn, kẻ tệ nhất chắc chắn cũng không đến mức…như cô chẳng hạn.
- Thật sao?
Cô làm ra vẻ nghi ngờ, hỏi lại rồi ném cho Jeremy con dao rọc giấy cài bên thắt lưng.
- Gì vậy?
Cô chỉnh lại miếng bịt mắt trái và chiếc mũ gắn lông giống loại lính ngự lâm hay đội.
- Cá cược, cậu biết tôi thích cá cược mà. Tôi sẽ hạ kẻ đầu tiên sinh sự với tôi ở đó bằng con dao này. Sau đó, cậu sẽ mua rượu cho tôi và đặt cược cho ván blackjack đầu tiên của tôi, mắt cá chết. – Levy huơ huơ cây kẹo cô đang cầm trên tay. – Sự thật là mắt cá chết ạ, nếu nơi nào cũng như Lanebrook  thì chẳng ai cảm thấy mình thừa thãi trên đời hết.
- Tôi thừa nhận với cô điều đó. Và hơn nữa, Jerry sẽ mua kẹo cho cô nữa, đủ cho hành trình dài 2 tháng trên trời. – Thomas cầm cuộn thừng đi lại trên sàn tàu.
- Nào nào, anh định hại chết tiền thưởng từ vụ trước của em sao?
Thomas Heller là anh sinh đôi của Jeremy. Một phần vì tên thật, một phần vì hai người thường tranh cãi những chuyện vớ vẩn nên phi hành đoàn gọi họ là Tom và Jerry. Thomas có mắt phải màu xanh, mắt trái màu nâu và Jeremy thì ngược lại, như thể hai người đó là hình phản chiếu của nhau trong gương. Họ hơn Levy 4 tuổi nhưng cũng chẳng chững chạc hơn cô là mấy. Không kể đến đám chạy việc khác thì họ là những người đầu tiên gia nhập phi hành đoàn của cô nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hai anh em sinh đôi là tay chân thân cận nhất của cơ trưởng. Câu chuyện về điểm khởi đầu của họ với tàu Blue Hope lại là chuyện phức tạp khác. Họ xuất thân từ thành phố cũng tai tiếng ngang ngửa Lanebrook  – Killygan – đánh lộn, chém giết, gái điếm, lừa lọc, phản bội, cờ bạc, tưởng như tất cả những thứ xấu xa trên đời đều có mặt ở đó. Họ đến Hansbourgh năm 6 tuổi – thành phố của quý tộc và hoàng thân , học lỏm giờ dạy phép thuật ở Học viện Ma thuật Hoàng gia Hanover rồi không lâu sau đó lại trở về Killygan . Đó là mọi điều phi hành đoàn biết về họ. Họ không bao giờ đề cập đến chuyện tại sao Levy lại cứu họ khỏi cái tổ quỷ đó, mà nếu có thì họ đều cố tìm cách lảng tránh. Chuyện của họ phần nào giống với Veronica, con bé lên 10 trong đoàn.
- Nghỉ lại Lanebrook  trong 2 ngày, nhưng đừng để bị giết. Ta sẽ xuất phát vào sáng ngày thứ 3 và ta sẽ không chạy khắp thị trấn để tìm một tên đần say khướt nào đâu. Đây là tiền thưởng sau vụ lần trước.
Levy đứng trên boong tàu, vừa nói vừa ném túi đựng tiền vàng về phía phi hành đoàn. Cô nhảy xuống cảng trước cả khi con tàu kịp hạ xuống đất. Cô nhìn khắp bãi đỗ tàu, con mắt phải chợt dừng lại khi gặp một cột buồm tương đối kỳ lạ, lẩm bẩm điều gì đó rồi quay mặt đi. Veronica theo sau cô. Nó đáp xuống đất nhẹ nhàng như cơn gió vuốt ve thảm cỏ. Mái tóc xám bạc lấp lánh dưới những tia nắng xiên khoai cuối chiều.
- Tôi tưởng cô không đi cùng?
- Tôi nghe cô nói gì đó đến blackjack, dĩ nhiên tôi sẽ theo rồi.
 Nó tỉnh bơ. Sau khi chỉnh lại chiếc váy trắng bị gió làm xộc xệch và gõ gõ mũi của đôi giầy Mary Jane trắng xuống đất, nó nắm lấy tay cô rồi đi về phía đám ồn ào hỗn độn đang đợi ở phía trước.
Veronica thậm chí còn bí ẩn hơn hai anh em nhà Heller. Vào ngày trở lại để rời cảng Forthering, Levy mang theo nó và tuyên bố kể từ đó nó sẽ tham gia mọi hành trình của tàu Blue Hope. Vivi mang bộ dạng của đứa trẻ lên 10, thậm chí nhỏ hơn nhưng nó lại có vẻ gì đó rất chững chạc. Nó nói chuyện như thể nó đã đi đến mọi nơi, thấy mọi thứ, sống qua mọi thời đại từng tồn tại trên đời. Nó chơi những trò đỏ đen rất giỏi: blackjack, poker, roulette, baccarat, switch,…nó chẳng bỏ qua bất cứ thứ gì. Chỉ cần một đồng xu mẻ nó cũng dám đặt cược và đem về số tiền gấp nhiều lần hơn thế. Đã nhiều lần nó suýt chết vì bị mấy con bạc trả thù nhưng nó chẳng có vẻ gì là thay đổi.
Levy và Veronica bước vào con phố hẹp với hai bên là những ngôi nhà thấp lè tè, bẩn thỉu và đầy rêu. Trên phố có ít con người, phần lớn là không tặc, còn lại là cư dân lâu đời thuộc phần tàn dư của Hanover  – những kẻ dính dáng đến thế lực hắc ám luôn muốn phá hoại nơi này. Tiếng chửi bới, tiếng đập chai loảng xoảng, mùi thuốc súng, mùi rượu tràn ngập khắp phố. Có cảm tưởng như họ bước đến đâu thì nơi đó bỗng im ắng đến lạ. Đến một lúc nào đó, bỗng nhiên những tiếng cười chế giễu khó hiểu nhắm vào họ rộ lên từ khắp phía. Levy làm bộ mặt như thế cô đang không hiểu chuyện gì xảy ra, cô huơ huơ tay hỏi Veronica:
- Vivi, mặt tôi có nhọ hoặc thằng khốn nào đó gắn đuôi vào lưng tôi sao?
- Rõ ràng cô biết chuyện gì đang xảy ra. Phụ nữ ở Lanebrook  chỉ toàn gái điếm thôi, mà gái điếm thì rõ ràng không ăn mặc như cô.
Một gã béo bước về phía cô. Có vẻ như gã cố tình húc vào cô rồi gào tướng lên như thể cô mới chính là người gây ra phiền toái cho lão.
- Mày mù rồi sao?
Khi ngẩng đầu lên và nhận ra rằng đó là một cô gái với miếng bịt mắt, chiếc mũ gắn lông, vũ khí gắn bên thắt lưng, đúng như những gì người ta hình dung về cướp biển, gã cười phá lên.
- Xem này, gái điếm ở đây bỗng thay đổi cách ăn mặc.
Đám vô lại đứng chầu hai bên đường lại càng cười tợn, chúng thay nhau buông những câu tục tĩu như thể đó là một phần trong tính cách hài hước của chúng. Gã béo không biết mình vừa phạm thêm sai lầm khi tiếp tục cạnh khóe Levy.
- Thật ra cô em cũng khá xinh đẹp và quần bó làm cô em nổi bật hơn những ả điếm ở đây. Đó là lời khen hiếm hoi của ta dành cho đám đàn bà như cô em đấy.
- Thật ra có nhiều loại người làm ta phát lộn mửa và trong số đó bao gồm có ngươi. Bình thường ta sẽ đấu kiếm, nhưng vì một vụ cá cược nên ta không thể làm vậy được. – Cô lại làm ra vẻ ngốc nghếch, huơ huơ cây kẹo.
- Mày không thể đấu kiếm vì đó là kiếm gỗ, tao cá là thế. – Gã béo phá lên cười.
- Ta hạ ngươi bằng cách nào đâu có quan trọng đúng không?
Levy ngậm cây kẹo rồi rút con dao dọc giấy  từ mặt trong của áo khoác ra. Cô vuốt mái tóc vàng óng như màu nắng ra phía sau lưng. Trong một khoảnh khắc nào đó, gã béo dám thề rằng hắn nhìn thấy cô cười khinh bỉ và ánh mắt bỗng trở nên sắc đến lạnh gáy.
Con dao rọc giấy không đủ chắc để chặn được lưỡi kiếm nên cô chỉ còn cách tránh những đòn tấn công của hắn. Gã béo phát điên vì dù hắn có nhắm từ góc nào thì cô cũng vẫn né được, hắn thậm chí không thể cắt được một sợi tóc của cô. Gã dồn cô đến  cái giếng cạn trước cửa căn nhà gần đó nhất.
- Xuống giếng đi con! – Mặt đỏ gay, gã hét lên tức tối.
Cô vẫn bình thản trèo lên miệng giếng tránh những nhát kiếm của hắn. Hắn đi vòng quanh giếng, đưa kiếm ngày càng nhanh, cố ép cô phải rơi về phía sau. 
- El, nhanh lên. Tôi chờ cô lâu quá rồi đấy. – Veronica bắt đầu hờn dỗi.
- Xin lỗi, tôi xong ngay đây.
Trong chớp mắt, khi gã béo vừa nhảy lên thành giếng để dồn cô xuống, cô nhảy lên, bắt hai chân treo ngược mình trên thanh ngang buộc gầu múc nước, con dao rọc giấy được đẩy lên phát ra những tiếng kêu kèn kẹt trong khoảnh khắc thoáng qua, cô đưa mũi dao lại gần lồng ngực trái đang phập phồng của gã béo khiến hắn khựng lại, thanh kiếm tuột khỏi tay vì sợ hãi lẫn mệt mỏi.
- Xuống giếng đi nào, đồ ma cà rồng. Và ta nghiêm túc về việc cắm con dao này vào tim ngươi nếu còn vô lễ nữa đấy.
Vừa khi ấy, chiếc mũ của Levy tuột ra, bắt đầu rơi xuống giếng.
- Vivi, giúp tôi chút nào. – Cô nhìn cái mũ, thở dài cầu cứu Veronica.
- Xuống khỏi thanh treo gầu đi rồi tôi sẽ lấy lại mũ cho cô.
Levy nhẹ nhàng xoay người nhảy xuống đất. Cô ném thanh kiếm của tên béo xuống giếng, làm bộ mặt ngốc nghếch không tưởng.
- Và đó là cách cơ trưởng El Levy trừng phạt những kẻ làm mất thời gian của cô ấy. Dù sao ta cũng không thích giết người hoặc là ít ra không phải theo cách nhân đạo như vậy. – Cô nhún vai.
Veronica bước lại bên miệng giếng để làm gì đó. Không ai biết thực ra đã có chuyện gì nhưng lúc sau nó cầm chiếc mũ lại cho Levy. Đám hỗn độn vừa im lặng sau khi gã béo bị hạ bỗng xôn xao , dần dần có xu hướng ầm ĩ khi cô nói tên mình. Cô bước đi tiếp trên con phố, ném về phía sau cán của cây kẹo đã tan hết rồi phẩy tay làm hiệu cho ai đó phía sau mình:
- Jerry, việc đầu tiên cậu sẽ làm là mua scotch cho tôi.
- Sao lần nào cá cược với cô tôi cũng thua thê thảm vậy, kể cả lần cô cướp cảng Haye bằng con dao rọc giấy đó nữa. – Jerry vừa nói vừa đuổi theo cô, đi cùng anh là Thomas và Cornelius.
Cornelius, tên gọi khác trên tàu Blue Hope là “Ngô già”, là phụ lái của ông già Larry. Khi Levy không muốn cầm lái thì ông già Larry hoặc Cornelius sẽ làm việc đó thay cô. Thực ra anh ta cũng là một tay khá, tuy nhiên nếu để so với Larry, người lái những con tàu bay trên không từ khi loại tàu này mới xuất hiện thì anh ta và vài gã nữa chỉ đáng làm phụ lái. Về biệt danh “Ngô già” của anh ta, người khác được nghe kể lại rằng từ khi Levy tuyển thêm một đầu bếp cũng mang tên Cornelius đến từ Haye thì rắc rối do nhầm lẫn tên gọi cũng tăng lên đáng kể. Để phân biệt, cô gọi tắt người phụ lái là “Corn” vì anh ta đến từ Forthering – vùng trồng ngô nổi tiếng ở Hanover với dân cư chủ yếu là tiên vườn. Vào thời điểm đó, tức là cách đây chừng 6 năm, anh ta 28 tuổi, hơn Levy những 10 tuổi nên bị cô coi là già. Cái tên “Ngô già” xuất hiện từ thời điểm đó.
- Tôi đã nói với cậu bao nhiêu lần rồi. Là do mụ phù thủy già đó cướp hũ vàng yêu tinh tặng tôi nên tôi làm loạn ở Haye. Lấy lại thứ thuộc về tôi đâu gọi là cướp. – Levy phẩy phẩy tay ra hiệu cho đám người ở phía sau đi theo mình.
Khi ấy, một đôi mắt bỗng biến mất sau tấm rèm của ngôi nhà gần đó.
____________
Việc đầu tiên Levy làm khi đến quán rượu là thuê phòng vì cô biết rằng sau một đêm uống rượu và đánh bạc đến gần sáng thì chẳng ai còn đủ tỉnh táo nữa. Con goblin chủ quán chỉ cao bằng nửa người bình thường nhưng nó luôn gào thét đám làm thuê bằng chất giọng với thứ âm lượng điếc tai ghê gớm. Nó lấy chìa khóa phòng đưa cho cô và nhìn cô chòng chọc bằng ánh mắt nghi ngờ: hắn chưa từng thấy phụ nữ tử tế là con người ở Lanebrook. Cô lên phòng trong khi những người còn lại bắt đầu cuộc chơi thâu đêm ở tầng dưới. Cô nghĩ đến việc sẽ ngâm mình trong bồn tắm sau khi đã bị ám cái mùi ghê tởm và bẩn thỉu của thị trấn này.
Levy tháo miếng bịt mắt trái khi đã ngồi trong bồn tắm. Không giây nào cô dám cúi xuống nhìn hình phản chiếu của con mắt mình trên mặt nước. Tính hiếu kỳ thôi thúc hãy cúi xuống nhìn nhưng ngay lúc đó, cô không đủ can đảm để làm vậy. Cô chọn dập tắt sự tò mò bằng cách nín thở, chìm vào làn nước. Nó có thể không thực sự hữu ích với chuyện về con mắt nhưng nó sẽ khiến cô bớt nghĩ về những thứ xảy ra cách đây đã quá lâu và chân thành mà nói, cô biết những thứ đó giờ đã không còn thuộc về cô. Ký ức của người khác về cô có lẽ giờ đã bị bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc. Cảm giác bị quên lãng là thế nào, cô không rõ lắm vì sự thực là cô không có quyền lựa chọn.
Levy đột ngột đứng dậy. Cô lấy khăn lau khô người rồi mặc quần áo – quần bó màu nâu và áo trắng rộng thùng thình như những kỵ sĩ và chủ yếu là giống những gã lãng tử trong nhiều câu chuyện mà Cornelius thường kể để cô làm bộ mặt ghê tởm. Cô chợt cười: trước kia cô không nghĩ đây sẽ là trang phục thường xuyên của mình vì mẹ cô sẽ tức đến vỡ mật nếu biết cô ăn mặc như thế.  Cô bước về phía gương. Dù chẳng cố tình nhưng trong một tích tắc, khi nhìn lướt qua gương, cô bắt gặp con mắt trái của mình lấp ló sau mớ tóc vàng trước trán. Nó khơi lại sự tò mò lúc trước của cô. Vậy là cô bèn vén mớ tóc lên và nhìn nó chằm chằm. Mắt phải của cô xanh trong veo như màu ngọc lục bảo nhưng mắt trái thì ánh lên màu xanh lam. Cô dường như không thể thôi nhìn vào nó, cô quên hết sự tò mò, lo sợ hay những gì đã nghĩ; thứ cô nhìn thấy lúc đó hay nơi cô đặt trọn tâm trí vào là con mắt trái màu lam trong veo nhưng có phần kỳ dị và ám ảnh. Vừa lúc ấy, tiếng gõ cửa phòng tắm khiến cô giật mình như vừa tỉnh giấc sau giấc mơ. Tiếng Veronica vang lên phía ngoài:
- El, cô ở trong đó à? Nhanh lên nếu không Jerry sẽ khỏi mời cô scotch luôn, cậu ta bảo thế đấy.
- Ừ…ừ…Tôi xuống ngay đây. – Levy trả lời, giọng cô có phần bối rồi.
- Cô lại đang nhìn nó đấy hả? Cô sẽ bị nó ám ảnh đấy biết không, xuống dưới nhà mau đi.
Levy đeo miếng bịt mắt trở lại, bước ra khỏi phòng tắm, xỏ chân vào đôi ủng đi ngựa. Cô bóc một cây kẹo mới rồi dùng chân đá mạnh cửa sau khi rời phòng. Cô xuống nhà với bộ mặt khác.
- Thêm bia và scotch không pha lại đây. – Thomas gọi gã phục vụ rồi quay vào bàn, nơi có Levy, Jerry và Cornelius. – Toàn bộ phần của El sẽ được tính cho Jerry.
Nói rồi anh bật cười như thể cố tình chọc tức Jerry.
- Anh được lắm. – Jerry hậm hực.
- Ban  nãy cô nên cho gã ma cà rồng ấy một củ tỏi, hoặc là xiên vào tim nó. – Cornelius nói.
- Mọi thứ không hề ngẫu nhiên hoặc đơn giản như cậu tưởng đâu. Có điều phải vài năm nữa cậu mới có khả năng đánh hơi được mọi thứ ở Hanover như tôi. – Cô uống ly scotch vừa được mang đến – Hoặc là chẳng bao giờ cả. Nhìn chung, tôi không có sở thích giết người. Comprends?
- Ý cô là sao? Jerry phá lên cười. – Thế còn lần cô bẻ cổ gã tự xưng là “Cơ trưởng Stuart vĩ đại” bằng tay không thì sao? Cô có nghĩ thế không?
- Gì? Cô thốt lên như thể mình vô tội. – Tôi nói là tôi không thích làm thế nhưng không có nghĩa là tôi không làm thế trong một vài trường hợp bắt buộc. Rõ ràng là hắn đã cho Blue Hope ăn 4 viên đại bác, hạ 3 người của ta và dĩ nhiên nếu hắn động đến tàu của tôi thì hắn sẽ bị trừng phạt, vô cùng vô cùng ghê gớm.  Tóm lại là các cậu đang ý kiến về gã ma cà rồng ban nãy, nhưng mà tin tôi đi, tôi luôn luôn đúng.  
- Chào cơ trưởng, tôi ngồi cùng được không? Là Bradley và Carter.
- Cơ trưởng lại uống rượu, Levy lại uống rượu. – Giọng con gia tinh chỉ cao 10 inches ngồi trên vai Carter the thé.
Levy lườm nó như thể nói: “Liệu hồn đấy!” rồi cô cũng xích qua để hai gã kéo thêm ghế lại ngồi.
Bradley và Carter, hai chân chạy vặt rất được việc trên tàu Blue Hope. Bradley là dark elf – yêu tinh, những sinh vật bất tử, những chiến binh khiến mọi loài khác ở Hanover phải kính nể. Thứ duy nhất có thể giết chết họ là bệnh tật hoặc vết thương trên chiến trường. Nghe nói Bradley từng bị sét đánh năm 15 tuổi, đó là lý do tại sao tóc của gã luôn dựng đứng, cháy xém, cứng như rễ tre và khoe ra đôi tai nhọn hoắt. Carter trước kia từng phục vụ trên tàu của không quân Hoàng gia nhưng trong lần bị không tặc đánh úp, gã đã mất một bên vành tai, gã nuôi tóc dài để che vết sẹo kinh dị từ đó. Theo lời gã thì gã trở thành không tặc vì muốn trả thù cho bên vành tai ấy. Flint, gia tinh của Carter là một brownie được hắn cứu từ tàu không tặc đúng vào ngày gã mất bên vành tai. Nó khá chăm chỉ, tốt bụng, mấy gã trong đoàn chỉ cần cho nó ít cháo hoặc mật ong thì nó sẵn sàng giúp họ. Levy chỉ không ưa nó khi nó luôn nhạo cô mỗi lần cô uống rượu bằng cái giọng the thé đến khó tả.    
Sực nhớ ra chuyện quan trọng, Levy huơ huơ cây kẹo thứ n, bảo Cornelius:
- Cậu đi mua phô mai Cheddar cho Cheddar, thịt cho Mr.Sprinkles và ngũ cốc cho Jeff hoặc là chúng nó sẽ xơi tái cậu.
- Quỷ tha ma bắt con mèo Cheddar và con gremlin Jeff của cô! Cornelius nói nửa thật nửa đùa. – Chúng nó luôn luôn, luôn luôn có phô mai Cheddar, ngũ cốc còn chúng ta thì có lúc còn phải nhịn đói. Và Mr.Sprinkles nữa sao? Đó là cái tên tệ nhất tôi có thể nghĩ ra cho con Griffin đầu đại bàng, mình sư tử, sải cánh chim ưng dài 10 ft. và dấu đuôi nhọn hoắt chỉ một quật là chết tươi cả tá người. Lần nào nó cũng định cho tôi cái bạt tai bằng vuốt sư tử chết người, cô thấy thế là hay lắm sao?
- Cậu có phàn nàn gì sao? Dĩ nhiên là hay rồi! Vì con mèo Cheddar và con gremlin Jeff không tiêu tiền vào rượu, gái điếm và cờ bạc. Mr.Sprinkles rất ngoan và nếu nó có định tát cậu thì đấy là do nó thấy mặt cậu quá đáng ghét.
Trời càng tối, quán rượu càng ồn ào. Sức nóng, hơi rượu, mùi xì gà, mồ hôi, ánh đuốc chập chờn trong quán có thể khiến mọi kẻ lần đầu đặt chân đến đây ngất xỉu nhưng ngược lại, nó khiến cho những kẻ máu nóng ở Lanebrook  phát cuồng và choảng nhau ngay chỉ vì vài lý do tầm phào vớ vẩn. Vài gã nhân ngưu say khướt nằm la liệt trên sàn,tiếng hò reo của bên thắng bạc (mà trong số đó gồm có Veronica) lẫn lộn với tiếng chửi thề của kẻ thua. Thỉnh thoảng, người ta nghe thấy tiếng súng, tiếng cốc vỡ loảng xoảng, mấy gã đánh lộn quăng nhau sập bàn chẳng qua cũng chỉ là chuyện thường ngày. Mọi thứ cứ hỗn độn, tay nhạc công nhân mã cứ chơi. Hắn chơi những bản đàn nhanh và vui vẻ bên chiếc đàn piano bạc phếch được nối với mấy sợi thừng. Khi quán đóng cửa, người ta sẽ kéo dây tời treo đàn lên trần. Nhiều tiếng ồn xuất phát từ bàn của đám không tặc. Chẳng ai ngồi bàn đó có khuôn mặt vằn vện sẹo hay gợi vẻ gì đáng sợ nhưng cũng không ai dám ý kiến về tiếng ồn, đơn giản vì họ biết đó là bàn của El Levy, vài người trong quán lúc đó đã chứng kiến cuộc ẩu đả giữa cô với gã nào đó trên phố. Giữa buổi tối, Jeremy và Carter rời bàn đến ngồi bên quầy bar đùa cợt mấy ả lẳng lơ đầu đất ở đó, vài con người hiếm hoi ở Lanebrook; những người còn lại nhập hội chơi blackjack với Veronica: con bé đã án ngữ ở đó từ lúc cả đám đặt chân đến quán rượu.
Đến khuya, Levy thắng được khá nhiều tiền. Cô chỉ cần làm hiệu là gã phục vụ sẽ đem cho cô scotch không pha: hắn chưa từng thấy người nào uống nhiều đến thế mà vẫn đủ tỉnh, ít ra là để đặt cược và thắng bạc. Khuôn mặt cô bỗng biến sắc khi nghe thấy một giọng đàn ông ồm ồm, chắc chắn không phải giọng Anh gốc vang lên sau lưng:
- Kẹo ngọt, con có nghĩ đến việc bố thí cho kẻ nghèo hèn này chút gì từ số tiền thắng bạc của con không?
- Ông ta vừa gọi cô là “kẹo ngọt” sao El ?
Thomas hỏi lại để chắc chắn mình không nghe nhầm rồi phá lên cười sằng sặc. Dù sao khả năng anh nghe nhầm là rất thấp.
- Putain! Ông già, tôi đã bảo ông đừng gọi tôi như vậy cơ mà. – Levy quay phắt lại, hét lên tức tối.
Cô lập tức rút kiếm ra và một cuộc ẩu đả khác lại bắt đầu. So với gã béo hồi chiều thì người đàn ông chừng 50 tuổi ấy ở trình độ khác. Những đòn tấn công của ông ta khiến Cornelius có cảm giác ông ta có quen biết với cơ trưởng, lão dường như phần nào đoán trước được cách phòng thủ và tấn công của cô.
- Rõ ràng là ta đã dạy dỗ con khá tốt. – Ông ta nói.
- Điều không thể tha thứ nhất là ông vừa gọi tôi bằng cái tên khỉ gió đó trước mặt phi hành đoàn của tôi. – Cô hét lên tức tối.
Nói rồi cô nhảy lên nắp đàn piano, phi con dao giấu trong ủng vào cần gạt thừng khiến nó kéo chiếc đàn piano với tốc độ rất nhanh lên trần. Gã nhạc công nhân mã bị phím đàn va vào cằm, ngã ngửa về phía sau. Khi chiếc đàn đã lên quá cao, không còn đủ để những người ở dưới nhìn thấy bóng cô trên nắp đàn thì gã đàn ông kia tức tối chạy lại gần vị trí ban đầu của nó. Vừa khi ấy, tất cả các thừng buộc với đàn hình như bị cắt, toàn bộ khối đồ sộ ấy đổ ập từ trên cao xuống, gãy mất hai chân phía sau, trên nắp đàn chỉ còn những dấu ủng của Levy mà tuyệt nhiên không thấy cô đâu. Gã đàn ông bước lại gần để nhìn kỹ hơn thì một tiếng xuyên gỗ gọn lỏn vang lên, thanh kiếm xuyên thẳng qua hộp đàn, nhắm vào ngang bụng gã, chỉ cần nhích thêm vài ly nữa là gã sẽ mất mạng như chơi. Levy đạp nắp đàn, đứng dậy:
- Ông già, tôi đã nói ông thế nào về việc gọi tôi như vậy? Ông rõ ràng cần buộc mình vào pháo hoa rồi phóng lên cho tan xác mãi mãi và mãi mãi, Yamaguchi Hikaru.
- Yamaguchi Hikaru? Bradley cau mày. – Có phải cái gã đó không nhỉ?
- Gã nào cơ? Cornelius hỏi lại.  
- Yamaguchi Hikaru, ông già khùng làm pháo hoa. Cơ trưởng đã có lần kể với tôi về ông ta. Gia đình ông ta có truyền thống làm pháo hoa nhưng cha ông ta lại buộc ông phải trở thành nhà khoa học. – Thomas nói.
- Ông ta đã làm rất tốt việc đó, giáo sư Yamaguchi đến từ đại học Cambridge. – Carter nhập hội đánh bạc sau khi đã chứng kiến toàn bộ cuộc ẩu đả. – Nhưng một ngày, chẳng hiểu vì lý do gì, ông ta rời viện nghiên cứu, đến Hanover, trở thành không tặc và nổi tiếng với việc biến tàu địch thành mồi lửa khổng lồ cho những màn trình diễn pháo hoa khiến người ta không thốt nên lời.
- Ông ta gọi El là kẹo ngọt, tôi có thể hiểu ông ta điên đến đâu. – Cornelius nhún vai.
___________
Khó để kiếm được bàn trống vào thời điểm đó, nhưng Yamaguchi sẽ không từ việc hất vài gã say ra và chiếm lấy bàn đó.
- Ông vẫn khùng như 7 năm trước, ông già. Hanabi đâu?
- Khùng và thêm tóc bạc nữa. Hanabi bị sốt vào ngày phải rời London, ta để nó ở đó với quản gia. – Ông ta nói rồi uống một hơi dài chai bia mà tay phục vụ vừa mang tới.
Levy hơi ngạc nhiên. Dù vậy, cô không để ông ta biết cô đang nghĩ gì qua biểu hiện trên khuôn mặt. Cô nói tiếp.
- Ông không tự dưng đến tìm tôi mà không có lý do. Và đừng nói với tôi về chuyện làm ăn. Tôi sẽ xem xét nếu buộc phải hợp tác với ông vì, ông biết đấy, 7 năm, tôi không biết liệu ông có đổi phe không.
- Làm gì còn phe nào. Nhưng con sẽ đổi ý khi nghe chuyện này, chuyện về kho báu của Heller.
- Heller, cái lão phù thủy mà người ta đồn rằng đã giấu một kho báu khổng lồ ở Hanover đấy sao? À tôi thấy rồi, vì ông nghe nói kho báu nằm đâu đó ở vùng trời phía bắc, nơi cả không tặc lẫn không quân Hoàng gia đều không dám đặt chân đến. Mà ông biết rằng tôi đã suýt chết nhưng cuối cùng lại sống sót để thoát ra khỏi đó sau 2 tuần, vậy là ông nhờ đến tôi? Ông vui tính thật đấy.
- Dĩ nhiên ta là ông già vui tính rồi. – Ông ta vuốt chòm râu ngắn ngủn. – Nhưng đánh cược tính mạng vì khó báu của Heller xem ra cũng đáng chứ.
- Vậy ông đã từng nghe nói gì về nó chưa? Người ta đồn rằng đó thật ra là cái bẫy của Heller để nhử những kẻ tham lam tới đó rồi cho biến thành cát bụi.
- Kho báu đó có thật.
- Làm sao ông biết? Mà dù nó có thật, ông nghĩ sao tôi sẽ đến đó chỉ vì mấy đồng vàng hay mấy viên đá quý? Tôi chỉ cần chơi blackjack ở đây thêm vài năm nữa, rời Hanover, đến Las Vegas, Atlantic City thì đến lúc bị tất cả các casino cấm cửa tôi sẽ có số tiền nhiều hơn thuế mà dân Anh đóng cho Nữ hoàng trong vài năm.
- Phải phải, ta đã mất khối tiền vì chơi blackjack với con rồi. Giá mà khi đó ta theo ngành toán học ứng dụng chứ không phải vật lý thiên thể thì đã chẳng xảy ra chuyện như thế. Chuyện là Meurt , El. Người của ta ở trên tàu  hắn báo lại rằng hắn có bản đồ đến kho báu, bản đồ thực sự ấy, với dấu tích của Heller. Người ta nói rằng kho báu là thứ kỳ diệu hơn mọi thứ kỳ diệu, nó vượt sức tưởng tượng của con người, kẹo ngọt.
- Gọi tôi như thế thêm lần nữa, tôi sẽ biến ông thành thịt xiên nướng.
- Mà ta còn nghe nói con có thể xin người giữ kho báu một điều ước. Cũng đáng để thử đấy chứ.
Nghe đến điều ước,  bất giác, Levy đưa tay trái lên định chạm vào miếng bịt mắt nhưng chợt nhận ra mình đang ngồi trước mặt Yamaguchi, cô làm bộ như mình vuốt mớ tóc lòa xòa trước trán.
- Vậy để tôi nói cho rõ nhé. Ta đang đi tìm kho báu của Heller. Để có bản đồ đến đó ta buộc phải giết Meurt  rồi đánh cược tất cả khi bước chân vào vùng trời phía bắc và khả năng lớn là tan xác từ khi đụng mặt gã khùng Meurt . Một kế hoạch dễ thương chưa từng thấy. – Cô huơ huơ cây kẹo.
- Dĩ nhiên là dễ thương rồi. Câu trả lời của con?
- あさって 出発 する よ。
- 驚いた、 まだ 日本語が 話せますか? いい 選択 だ、 飴。
- 黙れ、 くそう じじい。
___________
Trong căn phòng kín mít rộng chưa đầy 20 m2, những mẩu nến ngắn ngủn cháy leo lét càng thêm phần tù mù khi khói cigar của một trong hai gã ở đó mỗi lúc thêm dày. Hai người ngồi đối diện nhau bên bàn chơi blackjack thậm chí không nhìn rõ mặt nhau. Yamaguchi đóng vai nhà cái, ông chia cho mình và bạn chơi mỗi bên 2 cây bài.
- 19 và 10. Dừng? Lấy? Gấp đôi?  Yamaguchi hỏi. Ông ta như thể đang toan tính hay trông chờ một điều gì đó từ bạn chơi.
- Gấp đôi. – Gã còn lại vừa nói vừa đặt thêm tiền vào vòng đặt cược.
- Ông nghĩ mình sẽ thắng sao?
Yamaguchi vừa nói vừa rút thêm một con bài rồi lật lên. Làn khói thuốc dày đặc giúp ông ta che bớt vẻ kinh ngạc của mình.
- 21 điểm. Không phải là nghĩ mà ta biết chắc mình sẽ thắng.
- Mạo hiểm, nhưng đáng giá. Tôi muốn chắc chắn về trò chơi tiếp theo của ông.
Gã không đáp lại mà nhếch mép cười. Gã hất nhẹ tay trái, lòng bàn tay ngửa lên như thể muốn đáp lại: “Tôi còn có thể nói gì đây.”
Yamaguchi nhếch mép cười, thảy lên bàn một cái hộp gỗ nhỏ rồi bỏ đi.
Chương 2. Meurt
Tàu của Levy và Yamaguchi đã rời khỏi Lanebrook và bắt đầu hành trình không tưởng được 5 ngày. Cho đến lúc đó, Yamaguchi vẫn chưa nhận được thêm tin gì từ nội gián trên tàu của Meurt. Tối ngày thứ 6, khi Levy đã cho phi hành đoàn của cô tạm nghỉ, thả con tàu trôi lơ lửng trong không gian thì ông ta vội vã sang tàu của cô.
- El, có chuyện cần bàn đây. Xuống khỏi thành tàu mau.
- Có quan trọng lắm không? Tôi đang chuẩn bị ăn tối đây. – Cô uể oải.
- Nhìn mặt ta, nhìn mặt ta mau, trông có giống không quan trọng không, hả?
Ông ta vừa nói vừa chỉ vào mặt mình. Đúng là lúc đó có vẻ ông đang rất căng thẳng. Không đợi cô nói thêm câu nào, ông đi thẳng vào phòng họp. Khi Levy bước vào thì ông ta đã yên vị trên ghế bành với một điếu cigar lấy từ trong hộp để sẵn trên bàn.
- Có tin gã Nhân ngưu đang đến cảng Gwelden và sẽ ở lại đó cả tuần tới. Con tính làm gì khi đến đó?
- Đi lấy bản đồ, dĩ nhiên rồi. – Cô thản nhiên đáp rồi ném que kẹo vào gạt tàn.
- Ý ta là làm thế nào để lấy được bản đồ! Hắn sẽ nướng chúng ta ngay nếu biết hắn không phải không tặc duy nhất ở cảng vào thời điểm đó.
- Ông cần phải học cách thư giãn đi Hikaru. Dĩ nhiên ông không thể lẻn lên tàu và lấy cắp bản đồ được vì đám cục súc hắn chuyên dùng để canh tàu…- Cô lắc đầu lè lưỡi – Đại loại là ông không muốn gây hấn với bọn chúng đâu. Đó là đám thây ma nhân ngưu được Meurt hồi sinh, có thể nói là bất khả chiến bại.
- Hay thật! Yamaguchi đưa 2 tay lên đầu đầy bế tắc. – Con bảo ta phải thư giãn đi và sau đó rốt cục con quăng vào mặt ta một cái tin không ai muốn nghe như vậy sao?
-  Tôi đang gợi ý cho ông đấy ông già. Chúng ta không muốn đối mặt với lũ cục súc đó nên tốt nhất là…
- Ý con là chúng ta khiêu chiến với hắn sao? El, như thế thì quá nguy hiểm.
- Ông có ý tưởng gì khác sao?
Levy nhướn mày  tỏ ra không hiểu. Cô ngừng một lúc rồi nói tiếp
- Thứ nhất, chúng ta không thể giết được đám canh tàu, ông không thể giết được những kẻ đã chết và hơn nữa chúng lại được hồi sinh bằng ma thuật hắc ám. Dĩ nhiên, đánh nhau với đám có thể chết sẽ tốt hơn đám không thể chết rồi. Hơn nữa, nếu ta đẩy Meurt vào 1 trận chiến thì hắn sẽ phải tập trung sức lực của mình cho trận chiến đó hay nói cách khác là tạm thời mất khả năng huy động đội quân bất khả chiến bại kia. Thứ hai, ông nên suy nghĩ tích cực rằng trong cuộc ẩu đả này thì lợi thế của ta chính là ở số lượng quân đông hơn của hắn.
Yamaguchi im lặng. Ông nhìn ra cửa sổ, tiếp tục phả ra những làn khói xì gà mờ đục. Trong lúc ấy, Levy loay hoay bóc một cây kẹo mới. Yamaguchi chẳng buồn bận tâm với kẻ đần ngồi đối diện mình và xem ra đó trở thành sai lầm lớn nhất của ông ta từ lúc gặp Levy tại Lanebrook. Cô vờ như đang gặp khó khăn với việc gỡ giấy bạc bọc kẹo nhưng sự thực là cô đang theo dõi ông ta. Cô cảm thấy có điều gì đó không ổn kể từ giây phút ông ta nói rằng mình để Hanabi – đứa con gái út 18 tuổi lại London vì con bé bị sốt. Người khác có thể coi thường những chi tiết nhỏ nhặt còn Levy thì lại không làm việc theo cách đó. Một bức tranh xếp hình thiếu dù chỉ một miếng ghép cũng không thể hoàn thiện, cô quan niệm tất cả những gì diễn ra xung quanh cô theo cách đó. Đó có thể là phúc lành và lời nguyền.
Yamaguchi hút hết điếu xì gà rồi mới quay ra nhìn Levy.
- Thôi được, nếu con cho rằng đấy là cách thích hợp nhất.
- Tôi hoan nghênh sự hợp tác của ông, ông già.
Khi Yamaguchi quay đi, Levy dám chắc rằng cô nhìn thấy ông ta đã nhếch mép cười. Ông ta gọi người bắc một tấm ván chênh vênh sang tàu của cô để ông ta có thể trở về tàu của mình.
____________
Levy thường không cho phép mấy gã trong phi hành đoàn uống rượu quá nhiều khi ở trên tàu. Đó là cách cô duy trì kỷ luật và lòng trung thành đối với phi hành đoàn của mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thỉnh thoảng cô không cho phép họ mang vài thùng rượu ở dưới hầm lên boong rồi uống đến mức chẳng còn biết trời đất trăng sao gì nữa. Tất nhiên, đó chỉ là những lúc nhàn rỗi. Tuy đêm hôm đó không hoàn toàn bình yên, an toàn hay thích hợp để nghỉ ngơi nhưng cô vẫn cho phép họ mang rượu lên boong. Phi hành đoàn của cô nhận thấy sự kỳ lạ, dù thế họ cũng chẳng thắc mắc vì sợ cô đổi ý. Con tàu được thả trôi tự do giữa những làn mây mỏng.
Hàng chục người ngồi thành vòng tròn dưới sàn tàu. Tiếng chạm cốc, tiếng cười nói hỗn độn biến thành một đám lao xao khiến mấy gã bên tàu của Yamaguchi ở phía trước phải chạy ra và quát tướng lên rằng họ cần phải im đi. Dù thế, chẳng có gì thay đổi.
- Cơ trưởng, chúng ta đi tới Gwelden làm gì vậy? Greg, một gã ma cà rồng chuyên ngủ trong cái quan tài thời nữ hoàng Victoria đặt dưới hầm tàu hỏi.
Levy làm bộ ngạc nhiên huơ huơ cây kẹo của mình, thản nhiên hỏi lại:
- Ta chưa hề nói với các người sao? Chúng ta sẽ tới kho báu của Heller, hay không?
- Cái gì cơ? Cả đám người trố mắt hỏi lớn.
Vừa khi ấy một gã thô kệch ở bên tàu của Yamaguchi trèo lên thành tàu, quay về phía tàu Blue Hope bực tức hét tướng lên:
- Lũ não bò sát kia, im đi, bây giờ là mấy giờ rồi hả?
Lập tức một quả táo xanh bay vèo sang, nằm gọn lỏn trong miệng gã và thậm chí còn khiến gã té ngửa ra phía sau. Levy lầm bầm điều gì đó rồi hạ tay xuống sau cú ném vừa xong.
- Thật bực mình. – Cô lắc lắc đầu – Dù sao thì…đúng, chúng ta thực sự đang đi tìm kho báu của Heller đấy. Mọi ước nguyện của các người sẽ được thỏa mãn, với một điều kiện duy nhất thôi. Chiến đấu, cụ thể là với Meurt, để giành được bản đồ.
Lần này, thay vì đáp lại cô bằng sự ngạc nhiên thì họ lại xôn xao  đến kỳ lạ. Cô nghe loáng thoáng trong đám hỗn độn mấy từ như “chết”, “bị giết”, “ghê gớm”, “nhân ngưu”,…Đó chưa phải tất cả nhưng dù sao cô cũng đã hiểu được phi hành đoàn của mình đang nghĩ gì. Levy bắt đầu khó chịu ra mặt vì đám hỗn độn ấy ngày càng lớn quá mức kiểm soát. Cô nhăn mặt, dài giọng:
- Trật tự đi…
Vẫn không có gì thay đổi.
- Trật tự! Trật tự, có nghe không đồ ruồi bọ!
Đến đây thì tất cả im bặt.
- Các người quả nhiên là đồ não bò sát. – Cô nheo mắt khua khua cây kẹo chỉ vào đám người ngồi quanh mình. – Chỉ là không tặc, tại sao phải ầm ĩ lên như thế hả?
- Nhưng…Meurt rất nguy hiểm…- Hans ngập ngừng nói.
Hans là một leprechaun – thần lùn,  cao bất thường so với đồng loại và “cao bất thường” ở đây có nghĩa là nó cao 4 ft. còn đồng loại của nó cao 3 ft. Nó không giỏi làm giầy nhưng đấu kiếm thì không ai bằng nó. Cha mẹ nó cho rằng kích cỡ của nó hay đấu kiếm đều chẳng được tích sự gì nên suốt thời gian ở làng Leprechaun, nó được coi là kẻ vô dụng. Trong lần đẩy xe chở da về làng cho cha làm giầy, nó gặp Levy khi cô và phi hành đoàn nghỉ trong thị trấn cạnh đó. Vậy là nó quên luôn cả xe chở da, những lời trách móc của cha mẹ nó mà đòi theo đoàn của cô bằng được. Cô cho nó một con dao, một thanh kiếm. Kể từ đó, ngoài việc trên tàu, nó còn lo các nhiệm vụ ám sát đám vô lại phản phúc.
- Vậy ta chưa đủ nguy hiểm để các người xôn xao phải không? Cô quát. – Ta sẽ kể cho các người về hắn. Có kẻ trong các người sẽ hoảng sợ tìm cách thoát thân nhưng kẻ khôn ngoan thì sẽ nghĩ tới điều sẽ nhận được nếu đến được kho báu của Heller. Đó không phải hy vọng phù hoa thưa các quý ông, đó là hiện thực, nhưng chỉ với điều kiện các người biết lắng nghe những gì ta nói, hay chính xác hơn là những gì cần phải làm để đến được đó.
Hàng chục cặp mắt hướng về phía Levy còn cô thì khi ấy vẫn điềm nhiên nhấc cốc vang của mình lên và uống một hơi dài. Cô nói tiếp:
- Ta sẽ bắt đầu câu chuyện bằng việc đặt cho các người câu hỏi: có ai trong các người nhìn thấy Meurt chưa? Dĩ nhiên là chưa, vì chẳng không tặc nào chạm trán hắn mà có thể sống sót quay trở lại. Hắn sẽ giết họ ngay tức khắc và dùng máu họ để nhuộm cánh buồm của hắn. Kẻ nào nhìn thấy cánh buồm đỏ thẫm sẽ hiểu sự tàn bạo của hắn. Mà ta còn nghe đồn thỉnh thoảng hắn dùng xương sống con người để làm roi hay thắt lưng, với kẻ như hắn ta cũng chẳng ngạc nhiên. – Cô nhún vai.
- Cơ trưởng, có phải hắn có dính dáng gì với đám phù thủy hắc ám không? Lần này là ông già lái tàu Larry.
Larry làm lái tàu từ thời không tặc mới xuất hiện. Dù là light elf nhưng thật ra giữa ông và dark elf Bradley chưa từng có xích mính hay đánh lộn lần nào. Đó là một ông già có tài chọc cười, phúc hậu hệt Santa Claud, ngoại trừ việc ông có đôi tai rất nhọn.
- Đúng thế đấy. – Levy đáp. – Hắn là nhân ngưu khỏe nhất mà các người có thể hình dung ra được. Tuy nhiên, thế là chưa đủ với hắn nên hắn đã kết thân với hội phù thủy hắc ám ở thung lũng Quạ. Đám phù thủy thực sự đã giúp hắn, hay chính xác là con tàu của hắn rất nhiều. Nó có khả năng tự lành các vết đạn đại bác bắn, tất nhiên là chỉ sau khoảng thời gian nhất định, khi cần thiết hắn còn có thể huy động thêm vài khẩu đại bác với tầm bắn cực xa mà ta chẳng rõ hắn giấu ở đâu nữa. Meurt thường cho tàu bay hoặc là rất thấp, hoặc là rất cao với mục tiêu cày nát các con tàu trên trời ở hướng mà người ta không ngờ tới. Một viên đạn đại bác bỗng từ trên trời xuyên thẳng qua mây lao xuống và thế là bùm!
- Và việc của chúng ta là cướp bản đồ từ tay hắn sao? Gilian nhăn mặt hỏi lại. Anh ta có vẻ khó hiểu.
Gilian là draugr – loài sinh vật mang hình dáng con người nhưng có khả năng tăng kích cỡ, khối lượng đến mức khổng lồ. Sự thực thì Gilian là một gã khá ưa nhìn, bằng chứng là luôn có không biết bao nhiêu những cô ả bám lấy anh ta mỗi lần tàu dừng lại ở không cảng. Tuy nhiên, bộ dạng khổng lồ của anh ta lại vô cùng xấu xí, đáng sợ, thậm chí còn có mùi hôi thối của địa ngục. Draugr sống đơn lẻ. Gilian đã khiến rất nhiều người ngất xỉu vì kinh hãi trước hình dáng vốn có của mình và dĩ nhiên, người duy nhất, không kể đến những draugr khác, chấp nhận Gilian là Levy và những người duy nhất chấp nhận được anh ta là phi hành đoàn của cô.
- Nguồn gốc và hình dáng to lớn của cậu là một lợi thế đấy Gilian, làm ơn bỏ cái bộ mặt ấy đi. Nghe này, đó không chỉ là của cải, nó không chỉ thỏa mãn mong muốn vật chất hay lòng tham vô đáy của các người. Nó là điều ước, mà dù chỉ một điều ước thôi đã cho các người sự lựa chọn rộng lớn hơn cả của cải rồi.
Vừa nói cô vừa khoa chân múa tay để minh họa cho những gì mình vừa nói. Và sự thực là Levy có thể thấy trong mắt họ hi vọng về kho báu bắt đầu lấn át nỗi sợ hãi về gã nhân ngưu. Điều cuối cùng cô cần phải làm để họ quên hẳn những nguy hiểm có thể sẽ gặp phải là cho họ, hay nói chính xác hơn là khơi lại sự tự tin của họ. Vậy là cô nói thêm:
- Thôi nào, nghĩ lại xem các ngươi đã làm được những gì kể từ khi lên tàu của ta. Tom và Jerry, các cậu đã cướp được con tàu tốt nhất của Không lực Hoàng gia, Gilian đã hạ gã khổng lồ ở vực Depthen chỉ bằng một cái bạt tai, Hans đã ám sát mụ phù thủy già nguyền rủa tàu Blue Hope,…Gần đây nhất, ta muốn nói đến việc chúng ta đã đánh bại đám quỷ đầm lầy rồi lấy vàng của chúng. Hãy nghĩ về việc các người đã làm trong quá khứ, tại sao các người lại nghi ngờ khả năng của mình? Meurt là không tặc, chỉ là một không tặc nhưng danh tiếng của hắn bị thổi phồng lên quá mức, hoặc nói theo cách của người đến từ thế giới của cơ trưởng Levy là được PR quá mạnh, như ban nãy ta vừa lấy ví dụ về việc PR hắn chẳng hạn. – Cô liếc mắt nhìn lên trên, cau mày làm vẻ nghĩ ngợi. – Nhưng dù sao…vấn đề chính ở đây là kho báu của Heller. Hơn nữa, việc các ngươi bước chân lên tàu của ta không đơn thuần vì thứ lợi ích vật chất vớ vẩn. Ta chỉ mang dòng máu phù thủy còn các người thì có gì? Kẻ thì làm ra vàng, kẻ thì có khả năng lấy cắp của kẻ khác, kẻ lại có thể dễ dàng cướp của kẻ khác, kẻ được trả rất nhiều vàng sau mỗi nhiệm vụ. Cái các người muốn thật ra là những cuộc phiêu lưu, vậy tại sao lại từ chối cuộc phiêu lưu lớn nhất từ trước tới giờ. Các người nói sao?
Levy không cần phải đoán, cô có thể biết trước phản ứng của phi hành đoàn: họ hét lên đầy quyết tâm. Đám người đã an nhàn cả buổi tối và sau cùng nhận ra rằng họ đã chán sự nghỉ ngơi quá mức, đã đến lúc cần vẽ một bức tranh ấn tượng nhất từ trước đến giờ.
___________
Veronica theo Levy vào phòng cô. Khi cửa phòng vừa khép lại, nó bỏ ngay cái bộ mặt ngây thơ nhõng nhẽo ban nãy. Nó lên tiếng:
- Ấn tượng đấy. Họ không biết vừa bị cô lôi vào chuyện gì.
- Tôi đâu có làm gì sai trái nào. – Levy giơ hai tay, đôi môi hé một nụ cười có phần sắc sảo.
- El, mà không, Elita thân mến, nếu coi đây là ván blackjack, cô nghĩ ai là nhà cái? Cô sao? Chắc chắn không phải rồi. Cô có lợi thế gì ngoài Yamaguchi Hikaru cùng với đám phi hành đoàn trung thành đến khó tin do bị khả năng lập ngôn của cô lôi kéo? Quân Át của cô vẫn lơ lửng ở đâu đó xa lắm.
Levy cau mày không vừa ý.
- Trước hết, Vivi, tôi không gọi cô bằng tên thật, thì cô cũng không nên gọi tôi là Elita như vậy. Ai là nhà cái, chuyện đó đâu có quan trọng, Thần Gió, đánh bại nhà cái là phần luôn luôn có trong mỗi ván bài của chúng ta. Còn về chuyện quân Át, ý cô là bản đồ sao? Gã nhà cái lật quân đầu tiên lên, nó là Át, nhưng điều đó không có nghĩa hắn sẽ thắng ván bài. Còn về lợi thế mà cô nói đến, tôi sẽ hiểu đó là lời khen dù ý cô không phải thế, vì phi hành đoàn của tôi luôn là đám mạnh nhất ở Hội đồng Celestial.
Cô chống mạnh hai tay xuống bàn làm việc, nhìn thẳng vào Veronica bằng con mắt đầy tự tin và sắc sảo, và chắn chắn là không có vẻ đần độn như cô vẫn thường tỏ ra.
- Phải phải, - Veronica phẩy phẩy tay làm hòa. – Việc đó có thể giúp cô có một ghế giám sát viên ở Hội đồng của những lão già hôi hám có răng vàng gắn kim cương đấy. Elita, việc này là vì con mắt trái của cô. Cô đã không đồng ý đi cùng Yamaguchi Hikaru nếu kho báu này chỉ đơn thuần là vàng. Cô chỉ muốn điều ước từ người giữ kho báu để lấy lại con mắt trái, tôi nói không sai chứ?
- Đồ quỷ! Cô luôn bới móc mọi việc tôi làm là sao?
Levy ngồi xuống ghế, vớ lấy con dao rọc giấy trên bàn, phi thẳng về phía Veronica. Con bé đứng im. Một cơn gió mạnh đột ngột thổi qua, ôm lấy Veronica rồi hất mạnh con dao văng ra hướng khác. Mọi thứ diễn ra nhanh đến mức Levy chỉ có thể nhìn thấy con dao cắm thẳng vào bức tường phía bên tay trái Veronica. Cô cũng chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên khi kết quả trở thành như vậy. Đó là việc Thần Gió thường làm mỗi khi hai người tranh cãi.
- Cô luôn nhạy cảm như vậy nếu người ta nhắc đến con mắt trái của cô. – Veronica nhún vai – Tôi về ngủ đây.
Vừa nói nó vừa quay lưng lại bước ra phía cửa. Khi vừa đặt tay lên tay nắm cửa, như sực nhớ ra chuyện gì, nó chợt ngoái đầu lại, chậm rãi hỏi:
- Còn nữa, cô nói chưa có không tặc nào gặp Meurt mà sống sót, đó có phải sự thật không, thưa chủ nhân?
Mấy tiếng “thưa chủ nhân” thốt ra từ đôi môi nó nhẹ bẫng, kéo dài và có phần giễu cợt. Không đợi câu trả lời của Levy, nó từ tốn bước ra ngoài rồi đóng cửa lại. Cuối cùng cô cũng lấy lại được thế giới riêng của mình sau khi bị Veronica chất vấn đủ điều. Cô nhún vai và ngoài ra cũng chẳng băn khoăn thêm bất cứ điều gì. Cô thở dài, tháo miếng bịt mắt trái. Sự thật thì cô chỉ có thể thỏa mãn máu phiêu lưu nhưng lại chẳng bao giờ có thể là chính mình trong cuộc sống mà cô buộc phải lựa chọn.
Đã rất khuya. Levy ngồi trên ghế đệm bên cửa sổ, con mèo Cheddar nằm im trong lòng cô. Khi ấy, trong tay cô là một tờ văn bản có đóng dấu của sở cảnh sát khu vực Hanover. Nó cũ mèm, các mép giấy đều nát nhàu còn mực chấm bút lông trên giấy hầu như đã nhòe. Cô xoay đi xoay lại tờ giấy như thể chần chừ nhưng cuối cùng, trong khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó mà quyết tâm của cô cực lớn, cô xé nó thành nhiều mảnh rồi ném ra ngoài cửa sổ. Cô cứ nhìn theo chúng mãi cho đến khi màu giấy ngả vàng mất hút sau những làn mây mỏng.
Hanover còn được gọi là thế giới thiên đường. Dĩ nhiên người ta có lý do để gọi như vậy và phần nào lý do ấy đang hiện ra trước mắt cô. Tàu Blue Hope đang bay phía trên một khu rừng, có lẽ chỉ cách những tán cây cao nhất chừng 15 ft. Chẳng cần phải ở độ cao ấy, bầu trời sao vẫn lấp lánh, sáng rõ hơn bất cứ ngôi sao nào Levy từng nhìn thấy trong thời gian ở London. Kính viễn vọng với độ phóng đại cực lớn có thể giúp cô nhìn thấy thiên hà Andromeda ở thế giới thực nhưng ở đây thì chẳng cần bất cứ thứ gì khác để giúp bầu trời đêm rực rỡ hơn. Ảnh chụp thiên hà hay tinh vân của Hubble hóa ra chỉ là bức tranh xấu xí nếu đem so sánh với những gì đôi mắt con người có thể nhìn thấy ở Hanover. Lơ lửng trong khoảng không nối liền mặt đất với bầu trời là loài sinh vật tựa đom đóm nhưng rực rỡ hơn rất nhiều. Levy thích gọi đó là con “đèn lồng”. Mỗi vùng có một loại “đèn lồng” mang màu sắc đặc trưng, mà vùng trời tàu của cô bay qua lúc này được thắp sáng bởi những con vật có đốm sáng màu tím nhạt. Thỉnh thoảng, lấp ló qua màn sáng ấy, Levy nhìn thấy bluecaps và will-o’-the-wisp, ánh lửa ma trơi màu xanh lam. Ban đêm, Cornelius cho tàu bay thấp nên ở độ cao đó, cô vẫn nghe thấy tiếng dế kêu, thứ âm thanh cô vẫn yêu thích từ khi còn bé và không phải rong ruổi khắp nơi như hiện giờ.
Hồi đó, mỗi năm cô đều về London nghỉ hè, một trong những điểm đến thường xuyên vào thời điểm đó là nhiều khu rừng ở Essex, Derbyshire, Nottinghamshire,... Ban ngày, nơi đó là cả thế giới bí ẩn với đứa trẻ nhưng đến ban đêm, nó bỗng chốc trở thành thứ cô không hề muốn dây dưa đến. Mọi thứ tối đen, âm u, tiếng cú rúc, tiếng chim lợn cất lên trong đêm càng nhấn sâu vào vẻ u tịch của rừng. Nghĩ lại thì cô thấy chúng không đáng sợ đến thế, nhưng chúng nghèo nàn đáng kể so với màn đêm sống động của khu rừng phía dưới. Cành cây xòe rộng như những bàn tay vẫy vẫy trong gió, tạo ra điệu nhạc xôn xao của lá. Có lúc người ta nghe thấy bài Greensleeves, có lúc là khúc hát ru của người Scotland hay bài dân ca Ireland nào đó. Người băng rừng hát những khúc hát và cây rừng biến chúng thành bản nhạc không lời của lá và gió. Thỉnh thoảng, có bóng người mờ mờ như hơi nước đứng trên cành cây, ngước nhìn con tàu rồi vẫy tay. Levy mỉm cười, vẫy tay đáp lại họ - những linh hồn của rừng, họ không bao giờ rời khỏi khu rừng nhưng họ hài lòng với việc sống trong thế giới riêng của mình. Cá nhân Levy nghĩ đó cũng chẳng phải điều gì tệ lắm vì đó là một nơi rất tuyệt, chưa kể đến lối đi bí mật trong rừng mà đôi lúc chính họ còn nhầm lẫn. Qua tán cây, lấp ló rất nhiều những đốm sáng đủ màu. Lần này thì không phải con đèn lồng mà là những loài hoa vô danh. Chùm hoa của chúng luôn nặng trĩu, đến mức sà thấp xuống khắp phía. Phía dưới đất là hoa lưu ly, hoa huệ chuông mọc thành từng khóm lớn. Người băng rừng tương đối ít và cũng không hề muốn làm tổn hại đến cảnh sắc ấy nên chúng dường như vẫn nguyên vẹn. Phấn hoa và những cánh hoa rụng xuống lại được gió cuốn lên thành những dải dài trên không.
Nhìn chung, màn đêm ở Hanover không phải thứ màu đen đặc quánh hoặc rực rỡ ánh điện phù hoa theo hình dung của con người. Nó không u tịch có lẽ bởi vì luôn có cả thế giới sinh vật sống động mà mỗi người đều có thể nghe thấy, nhìn thấy. Và kể cả điều họ không cảm nhận được thì họ vẫn biết chúng thực sự tồn tại: đó là giờ brownie, hobgoblin bắt tay vào công việc của chúng, đến gần sáng chúng sẽ ăn mật ong hoặc cháo mà gia chủ phần chúng; bluecap dẫn đường cho người lạc trong đêm; dark elves sắp xếp dự trữ trong hang của chúng; dwarf thông thái ra khỏi hang, trèo lên mặt đất nhìn ngắm thế giới mà họ không ưa khi phải nhìn thấy trong ánh sáng ban ngày; swan maiden biến thành những thiếu nữ trẻ chứ không mang hình dạng thiên nga như người ta thường thấy vào ban ngày;… Trong sự yên tĩnh và ánh sáng “đèn lồng”, những cư dân lâu đời của Hanover bắt đầu nhịp làm việc mới của họ. Đó sẽ là điều kỳ quặc đối với đám người sợ hãi phép thuật hoặc điều kỳ diệu.
- Chủ nhân, Cornelius thông báo giữa sáng mai chúng ta sẽ đến Gwelden, sớm hơn dự định vài tiếng. Yamaguchi nhắn người chuẩn bị cho kế hoạch. Xong việc ông ta muốn hai tàu rời cảng ngay tức khắc.
Con gremlin từ đâu nhảy xuống sàn. Đó là linh vật mang lại may mắn cho mỗi chuyến bay. Thường chỉ có Không quân Hoàng gia mang theo sinh vật này vì sự thực là họ cần rất nhiều, rất nhiều may mắn để không đụng phải tàu không tặc. Tuy nhiên, cho đến thời điểm ấy thì gần như mọi con tàu bay trên không đều mang theo một gremlin.
- Bảo ông già không phải lo về việc đó. Ngoài ra, Jeff, ta muốn ngươi nghe ngóng tin tức bên tàu của lão. – Levy lấy cho nó một bát ngũ cốc.
- Người không tin ông ta sao? Jeff đón lấy bát ngũ cốc từ tay chủ nhân.
- Jeff, nếu trước kia ngươi không tin ta thì chẳng phải bây giờ ngươi vẫn an nhàn sao? Lòng tin phải được đặt đúng chỗ. – Cô uống cốc rượu đặt trên bậu cửa sổ.
- Tôi không coi việc trước kia chủ nhân từng làm là lừa dối. Cuộc sống trên tàu anh trai của người quả là an nhàn nhưng tôi hài lòng với thứ tôi đang có hiện giờ hơn.
- Ta hi vọng đó không phải cách ngươi dùng để an ủi ta.
- Hoàn toàn không thưa chủ nhân. Tôi thắc mắc không biết có phải mục đích của chuyến đi lần này của người là vì con mắt trái không? 
Levy không đáp, cô xua tay làm hiệu cho Jeff đi làm việc được giao. Cô rót thêm một cốc scotch đầy hơn rồi uống cạn ngay tức khắc. Qua ánh sáng của mấy con “đèn lồng” ngoài cửa sổ, đôi mắt cô bỗng thẫn thờ và buồn thảm đến kỳ lạ. “Scotch thật tệ!” Cô đặt mạnh cốc rượu xuống bậu cửa, lẩm bẩm.
__________
- Cơ trưởng, cô có thể nhìn thấy Gwelden từ đây rồi. – Cornelius nói.
Levy đưa ống nhòm lên nhìn từ thành tàu nơi cô ngồi. Một quần đảo xanh mướt, lơ lửng trong không gian lờ mờ hiện ra sau làn mây mỏng. Nhân mã tấp nập đi lại trên cảng, họ lăn những thùng rượu lớn lên tàu thương nhân. Gwelden có phần trong lành, vui vẻ và dễ mến chứ không u ám hay sặc mùi bẩn tưởi như Lanebrook. Levy thoáng lo ngại:
- Hi vọng chúng ta không đụng phải tàu không quân. Ta đủ phiền phức lắm rồi.
Ống nhòm của cô chợt đụng phải mấy bóng người đang thu một cánh buồm đỏ thẫm như được nhuộm máu khô nổi bật trên bãi đỗ tàu xuống. Levy rùng mình, cô ra lệnh:
- Klein? Klein? Klein đâu, đồ quỷ ngủ ngày, có ra đây không thì bảo!
- Vâng thưa cô…
Một gã mảnh khảnh vừa ngáp vừa trèo lên boong. Klein là ác quỷ, thứ sinh vật huyền bí vẫn được coi là đối đầu với thiên thần. Hắn luôn mặc đồ đen, lúc chải chuốt bảnh bao, lúc tỏ ra lãng tử. Tuy nhiên sự thật thì hắn là tên ngủ ngày lười biếng với lý do nhảm nhí vô cùng: hắn ghét ánh sáng.
- Dùng mây ngụy trang tàu, nhớ làm cho giống với mây thật xung quanh. Tom và Jerry, lần này ta sẽ cần đến bảo hiểm thân tàu đây.
Hai anh em sinh đôi nhìn cô rồi gật đầu, có vẻ như họ hiểu ý cô ngay lập tức. Vậy là hai người đứng sang hai bên mạn tàu.
- Mang Mr.Sprinkles lên boong. Chuẩn bị đại bác đáy tàu. – Cô nói lớn.
Larry hét lên, nhắc lại thêm lần nữa mệnh lệnh của cơ trưởng. Hàng loạt âm thanh của tiếng va chạm vang lên, lập tức những khẩu đại bác dưới đáy tàu được đẩy ra. Đám chạy vặt nhanh chóng mang thêm đạn đại bác từ thùng dự trữ đến chỗ xạ thủ. Áp lực và sự hối hả cộng với tiếng ồn ào dưới hầm tàu ngày càng lớn. Gã ma cà rồng Greg nhấc tấm gỗ lớn tưởng như một phần của sàn tàu lên, để lộ ra chuồng thú đan bằng quế và lá cây nguyệt quế do Levy tạo ra nhờ phép thuật thêm chiều không gian. Dưới đó tiên vườn Frank đã chờ cạnh con Griffin khổng lồ, thú nuôi Levy cưng chiều chỉ sau con mèo Cheddar. Frank gõ nhẹ cây đũa lên đầu Mr.Sprinkle để cho nó ít bụi tiên, con vật nhanh chóng được nhấc bổng lên như có bàn tay vô hình rồi nhẹ nhàng đáp xuống sàn tàu sau khi Greg đã lắp miếng gỗ trở lại. Nó ngáp dài – đó là cách lấy tinh thần của nó. Bất ngờ, một luồng gió mạnh nổi lên khiến tất cả mọi người phải nhắm mắt lại. Khi họ định thần lại thì sải cánh dài 10 inches của con Griffin đã duỗi ra.
- Sprinkles, chưa đến lúc!
Levy nạt. Vậy là nó ư ử rồi nhìn về phía cô với đôi mắt chó con rất ăn năn.
Đó là về phía Blue Hope, còn tàu của Yamaguchi lại mang không khí khác hoàn toàn, có vẻ như phi hành đoàn của lão mới chỉ làm xong mỗi việc chuẩn bị đại bác đáy tàu.
Lúc ấy, qua chiếc ống nhòm, Levy vẫn chăm chú quan sát con tàu có cánh buồm đỏ mà lúc ấy đã được hạ xuống – tàu của Meurt.
- Merde! Nếu không đến kịp lúc thì hắn sẽ “bật công tắc” cho mấy con cục súc canh tàu mất. Cornelius, tốc độ tối đa.
Khi ấy, Veronica bỗng tiến lại gần và giật áo Levy.
- Tôi đang bận mà Vivi.
Dù nói vậy, cô cũng quay ra nhìn Veronica. Nó chìa tay cho cô thấy mấy con bọ dừa, con thì đúc bằng vàng ròng, con đúc bằng bạch kim.
- Hệ thống định vị và ngắm bắn được chế tạo bởi dwarf thông thái, chính xác đến mức súng bắn tỉa chuyên dụng của Accuracy International hay I&B đều phải chào thua.
- Tôi không cần đến nó đâu Vivi, tôi có toàn xạ thủ, cô biết mà!
Vừa nói cô vừa đưa ống nhòm lên mắt. Kỳ thực, lúc đó cô muốn bảo Veronica hãy thôi ngay  việc nhắc đến I&B trước mặt cô nhưng cô không dám làm thế bởi ít nhiều gì, cô  biết, nó cũng sẽ gây tò mò, thậm chí là tổn hại đến thân phận và vị trí hiện giờ của cô.
Vài giây sau đó, tàu của họ đã tới gần hơn với Bloody Vengeance của Meurt, theo sau là Deadly của Yamaguchi. Meurt vẫn chưa thả lũ nhân ngưu chuyên canh tàu ra. Veronica không nghe chính xác Levy lầm bầm điều gì, nhưng nó có thể thề rằng cô đang nói gì đó về một chiến thắng trong chớp nhoáng.
- Nhắm vào cột buồm, cánh quạt trước và sau. Ra lệnh cho tàu của Yamaguchi bắn vào bánh lái và hai cánh. Bắn!
Larry và Cornelius hét lớn mệnh lệnh của Levy thêm lần nữa. Ba khẩu đại bác của tàu Blue Hope đồng loạt khai hỏa trước, ngay sau đó là hai khẩu đại bác bên tàu Deadly. Levy theo dõi mọi diễn biến qua ống nhòm. Trái với hi vọng trông thấy 5 viên đại bác cày nát mọi vị trí quan trọng trên tàu Bloody Vengeance thì chỉ có 2 trong số chúng nhắm trúng mục tiêu: đó là viên nhằm vào cánh quạt trước và sau, dù vậy chúng cũng chẳng gây được thiệt hại lớn cho Meurt. Nhờ phép thuật hắc ám, tất cả các bộ phận trúng đạn, dù với tốc độ chậm, nhưng đang dần dần hồi phục. Số đạn còn lại hoặc là bị đẩy bật ra nhiều hướng khác nhau hoặc là do ngắm bắn trượt, mà tất cả số viên ngắm trượt đều xuất phát từ tàu Deadly.
- Cái quái gì thế này?
Levy trợn mắt lẩm bẩm, cô gõ nhẹ vào ống nhòm. Qua ống kính đã được phù phép, cô nhìn thấy một làn khói đen mỏng bao quanh con tàu của Meurt.
- Merde, hệ thống phòng thủ tuyệt đối! Hắn mới cập nhật sao?
Khi cô chưa kịp định thần lại thì lập tức hàng loạt khẩu đại bác được đẩy lên từ phía dưới sàn tàu. Sau cái phất tay của bóng người to lớn mặc áo choàng đỏ, chúng đồng loạt khai hỏa, nhằm thẳng vào đám mây mà Klein đã tạo ra ban nãy.
- Đồ đầu bò! Levy tức giận lẩm bẩm.
Tàu Blue Hope chỉ rung lên một hồi rồi ngừng lại. Sau tiếng ầm ầm những người trên tàu nghe thấy thì chẳng có gì xảy ra nữa. Mờ mờ giữa làn mây mỏng, người ta nhìn thấy tầm màn trong màu xanh lam xen với màu xanh lá cây bao quanh tàu Blue Hope. Những viên đại bác xuyên mây nhưng không trúng tàu Deadly.
- Hệ thống phòng thủ mạnh nhất Hội đồng. – Cornelius nhướn mày, mỉm cười.
Levy không có phản ứng cụ thể nào ngoài việc lẩm bẩm: “Ông già may thật đấy!” Cô nhún vai rồi lấy từ trong túi ra một cây kẹo, thản nhiên xé giấy bọc.
- Bắn trả! Cô ra lệnh.
Chỉ sau nháy mắt, hai viên đại bác Meurt nhằm vào tàu Blue Hope được bắn trả từ hệ thống phòng thủ của anh em nhà Heller. Nó nhằm vào thân tàu và có vẻ như sức công phá còn mạnh hơn ban đầu. Trái với hi vọng của Levy, tất cả lại bật ra theo hai hướng khác nhau. Qua ống nhòm, Levy chợt nhận thấy cái gì đó bất thường. Cô vội vàng hét lên:
- Heller, nhắm vào đầu mút của 2 sải cánh, dùng loại đạn của dark elf ấy.
- Ra là vậy! Veronica đứng gần Levy, đôi mắt nhìn chằm chằm xuống tàu của Meurt, tay bắt sau lưng. – Hóa ra cũng chỉ là thứ đồ học đòi.
Veronica cũng đã nhìn ra điều đó. Hệ thống phòng thủ Meurt dùng cho thân tàu chỉ là thứ ma thuật chợ đen phù thủy rẻ tiền. Khả năng chắn đạn của chúng không lớn và chỉ tập trung quanh điểm trung tâm phép thuật. Càng lùi ra xa điểm đó, phép thuật càng yếu. Xét vào trường hợp của con tàu khồng lồ cỡ Bloody Vengeance thì ma thuật không đủ mạnh để bảo vệ cả hai sải cánh của chúng.
Loạt đạn tiếp theo nữa lại được bắn trả từ lá chắn. Lần này thì quả nhiên chúng đã gây thiệt hại cho tàu Bloody Vengeance. Quyết định đúng nhất của Levy là sử dụng đạn của dark elf, loại cho phép tạo ra chuỗi nổ liên tiếp dài tối đa 65 ft. Nhờ đó mà từ điểm mút của cánh, nó nổ vào trong, kết quả là phá hủy toàn bộ cánh của con tàu và hầm tàu. Tất cả đại bác trên sàn tàu bị vô hiệu hóa hoàn toàn.  Ngay lúc đó, không có bất cứ dấu hiệu gì cho thấy nó có thể tự hồi phục. Qua ống nhòm, Levy nhận ra khuôn mặt lông lá bẩn thỉu, tức tối của Meurt. Phi hành đoàn lộn xộn dưới kia đang nháo nhào tìm hiểu lý do tại sao tất cả đại bác đều không thể khai hỏa, Meurt thì ngày càng bực tức và hắn đã quyết định trút giận bằng cách cho con nhân mã gần đó một cái đấm đến ngất xỉu.
- Gỡ lá chắn đi. Vivi, Sprinkles!
Sau tiếng gọi của chủ nhân, con Griffin lại gần để cô trèo lên lưng. Nó gào lên một tiếng rồi tung sải cánh lao thẳng xuống tàu của Meurt. Cơn gió kỳ lạ nào đó bỗng nổi lên. Đám người ngẩn ngơ bên tàu Deadly nhắm chặt mắt lại vì rát, chúng đã bỏ qua điều kỳ lạ nhất ngày hôm đó. Từ phía dưới nhìn lên, phi hành đoàn của Levy đang lao xuống nhẹ nhàng như cơn gió. Chỉ trong chớp mắt, tất cả họ đã đứng trên tàu Bloody Vengeance, ác mộng kinh hoàng nhất của tất cả những con tàu bay trên không. Lúc đó, mấy gã chậm chạp trên tàu của Yamaguchi mới đang leo dây xuống, còn ông già ấy thì vẫn lầm bầm tự hỏi không biết cô lấy đâu ra lắm trò như vậy.
Ngay lúc đó, chẳng có cuộc chiến nào bắt đầu ngay. Theo nguyên tắc của El Levy, luôn có có một phiên đàm phán trước khi cô dùng đến vũ lực, dù phần lớn là những phiên đàm phán chẳng bao giờ mang lại kết quả gì.
- Nói thẳng vào vấn đề, mụ đàn bà đanh đá như ngươi muốn gì?
Meurt gằn giọng. Khi ấy hắn đang vô cùng bực mình, hai con mắt đỏ ngầu là bằng chứng cho điều đó. Nhìn từ mọi góc độ thì dáng người mảnh khảnh và chiều cao 5ft.9 của Levy chỉ bằng 1/3 so với gã nhân ngưu to lớn đứng trước mặt cô. Dù thế, cô vẫn rất bình tĩnh, thậm chí có xu hướng tỏ ra coi thường khi đứng trân trân nhìn hắn rồi liên tục đẩy qua đẩy lại cây kẹo trong miệng.
- Bản đồ! Cái dùng để đến kho báu của Heller ấy, tôi không nhận hàng giả đâu.
- Mạnh miệng đấy! Ngươi làm ta nhớ đến một kẻ ta đã đụng phải cách đây hơn 7 năm…
- Thật nhiều lời, thật nhiều lời… - Levy huơ huơ tay. – Nói tóm lại là tôi cần bản đồ. Tôi biết ông có nó mà.
- Elizabeth Bennett…
- Quả nhiên là gã đầu bò, Elizabeth Bennett là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Kiêu hãnh và định kiến” của Jane Austen. Quay trở lại vấn đề bản đồ đi.
- Vậy là hồi đó ngươi đã nói dối về tên thật, vì đừng bao giờ nghĩ rằng ta có thể quên được con ả không tặc non choẹt và còm nhom đã sống sót sau khi chạm trán với ta.
Đến đây thì đám người và sinh vật không phải người quanh đó bỗng xôn xao.
- Im lặng! Levy hét lên, ra lệnh.
Dù đáng ra cô chẳng có tư cách gì để bắt đám không tặc trên tàu Meurt phải im lặng nhưng sự thực là sau mệnh lệnh ấy, không ai dám ho he gì.
- Làm ta nổi cáu sẽ chẳng có ích gì cả, ngươi vừa cố tình khơi mào một cuộc chiến đấy.
Đó là dấu hiệu cho phi hành đoàn của Levy. Tất cả lao vào cuộc chiến đã được sắp đặt sẵn. Sprinkles lượn lờ phía trên đám phi hành đoàn tàu Bloody Vengeance như thể vị thần báo ứng của chúng. Chỉ chờ có cơ hội là nó lao xuống, dùng mỏ hoặc vuốt đại bàng hất đồ phản phúc bay khỏi tàu. Levy cũng muốn ở lại đấu kiếm với gã nhân ngưu lần thứ 2 sau 7 năm nhưng cô không có thời gian cho việc tào lao ấy, đó là theo lời Yamaguchi. Tên nội gián trên tàu Meurt nhân lúc hắn bị cuốn vào cuộc đấu với Bradley đã dẫn cô và Yamaguchi vào phòng riêng của gã cơ trưởng để lấy bản đồ.
Căn phòng chẳng có gì đặc biệt ngoài việc Meurt có cả giá trưng bày những cái thắt lưng làm bằng xương sống con người. Sau hồi lâu lục lọi mà chẳng thấy tăm hơi của bất cứ thứ gì có dạng như bản đồ, Yamaguchi hỏi:
- Dave, bản đồ có gì đặc biệt không?
- Thật ra tôi mới chỉ nghe Meurt nói chuyện với thuyền phó của hắn về bản đồ thôi. – Gã Dave lùn tịt gãi đầu.
- Cái gì? Thế là ngươi chưa nhìn thấy bản đồ sao? Levy nhăn nhó nói lớn. – Vậy còn bút tích của Heller là cái khỉ gì? Ngươi cũng chưa nhìn thấy phải không? Cô cốc mạnh vào đầu hắn.
- Bản đồ có tồn tại thật mà, thưa cô…
- Chưa nhìn thấy thì đừng nói với ta là thật. Nhìn quanh đây xem, chúng ta đã lục lọi khắp nơi mà chẳng có dấu tích gì của bản đồ hết. Và ông, ông già ạ, ông và gã Dave sẽ phải xin lỗi phi hành đoàn của tôi. Hãy hi vọng họ sẽ nhân từ khi ông đã làm mất thời gian của họ.
- Thưa cô…
Dave đứng bên bàn làm việc lộn xộn của Meurt, hắn đang chăm chú nhìn một cái hộp mà ban nãy Yamaguchi đã xác nhận nó là hộp nhạc thông thường.
Dave lật đáy hộp nhạc lên cho Levy nhìn dòng chữ khắc trên tấm biển mạ bạc gắn ở đó.
                                                         “Trí tưởng tượng của ngươi là có hạn nhưng thế giới là vô hạn.”
                                                                                                                                                              Jules Heller
- Thấy chưa, tôi đã bảo là bản đồ có thật mà!
Dave nhảy lên sung sướng. Kỳ thực, hắn chẳng quan tâm đến bản đồ mà quan tâm đến việc nó ở trên tàu Bloody Vengeance bởi nếu không, hắn biết chắc rằng El Levy sẽ cho hắn thêm vài cái bạt tai nữa.
- Chẳng hiểu là sao cả, nhưng cứ mang nó đi đã. Thật bực mình, bực mình…
Levy vừa lẩm bẩm vừa đi ra khỏi phòng, cô chẳng buồn cầm theo chiếc hộp nhạc mà mọi người cho rằng đó là bản đồ nữa. Khi cô vừa mở cánh cửa ra thì một cái rìu bay thẳng về phía cô. Nếu ngay lúc đó cô không cúi xuống thì El Levy đã trở thành lịch sử. Hai hòn than ở hốc mắt gã nhân ngưu đỏ rực lên tức giận, hắn tiến lại gần cô từ phía bên kia con tàu. Không nói lời nào, hắn rút kiếm ra và trông đợi phản ứng tương tự từ Levy. Cô đã định làm vậy nhưng một khuôn mặt quen thuộc bất ngờ lọt vào tầm mắt cô: cô nhìn thấy “ông già Noel say xỉn” đã gây sự với cô ở Lanebrook. Hắn vẫn say xỉn như vậy và vừa mới ló mặt lên boong dù đồng bọn của hắn đã bắt đầu cuộc ẩu đả rất lâu trước đó. Levy không thể nhầm vì trên cổ hắn vẫn còn vết sẹo từ con dao rọc giấy của cô. Ma cà rồng có khả năng hồi phục rất nhanh, đó là lý do tại sao ngày hôm đó cô đã thêm phép thuật vào con dao để trừng phạt cho việc hắn vô lễ với cô.
Khi ấy, cô không nhận ra rằng Meurt đã tiến đến rất gần cô. Nếu cô không rút kiếm ra ngay thì lần này cô chắc chắn sẽ thành lịch sử. Rất nhanh, cô đưa ngón trỏ và ngón cái lên miệng rồi huýt lớn, lập tức, Sprinkles sà xuống quắp lấy Meurt như con diều hâu túm lấy con chuột xấu số. Nó ném gã ta đi đằng nào đó qua cánh rừng của đảo chính. Việc Meurt bị ném đi như khúc củi khô khiến đám tay chân của hắn sợ hãi đến mức đông cứng lại.
Levy nheo mắt chép miệng rồi lắc đầu tỏ ra miệt thị. Đó cũng là việc cuối cùng cô cần làm trên con tàu bẩn thỉu của gã đầu bò. Cô nhảy lên lưng con griffin, thúc nó bay lên để trở lại con tàu vẫn nằm trong mây, không quên đưa hai ngón tay lên vành mũ, vẩy nhẹ đầy điệu nghệ để vẫy chào (và khinh bỉ) phi hành đoàn tàu Bloody Veangeance. Liền sau đó, người của Levy cũng biến mất như những cơn gió nhưng đám tay chân của Yamaguchi lại ì ạch leo dây trở lại tàu. Theo như thỏa thuận trước đó, Yamaguchi sẽ không tiếp tục hành trình cùng tàu Blue Hope mà sẽ gặp họ sau 40 ngày nữa ở Estaken – vùng lục địa rộng lớn trên không, cách mặt đất chừng 1640 ft. Tuy nhiên, thứ quan trọng nhất mà ông ta đãng trí quên mất là quyết định xem ai sẽ giữ bản đồ.
Chương 3. Bản đồ kho báu
Levy nằm dài trên ghế đệm kê sát cửa sổ. Từ góc đó, cô phóng tầm mắt ra xa mãi thì vẫn cứ thấy từng đụn mây trắng trên màu xanh hoàn hảo của bầu trời. Mây đan kín tựa mặt đất thứ hai và con tàu của cô đang lướt đi nhẹ nhàng trên mặt đất ấy. Cô tung lên tung xuống con dao rọc giấy bằng tay trái, khóe miệng nở một nụ cười rất khẽ. Cô không có vẻ gì là toan tính nhưng dường như cô đang đắc thắng về chuyện gì đó.
- Chuyện gì mà vui thế?
 Con mèo Cheedar hỏi. Con vật béo ú điệu đà bước từng bước ngắn vào phòng, theo sau nó là Veronica.
- Sự thật là, Blue Hope, Thần Gió thân mến, tôi đã lừa gạt để thắng ván bài, và tôi định sẽ tiếp tục làm thế đấy. Mà ông lạm dụng quyền năng của Ngôi sao xanh quá mức rồi đấy. Nó có thể giúp linh hồn của thứ vô tri vô giác là con tàu mang tên Blue Hope như ông lên tiếng và đi lung tung nhưng làm ơn biến ra khỏi con mèo của tôi đi. Ông có thể chui vào bức tranh cô hầu người Pháp trên tường cơ mà!
- Đồ đần, con ả múp míp thời Phục Hưng đó sánh sao với ta được. – Nó tỏ ra hung hãn, lắc lắc cái cổ ngắn ngủn rồi trèo lên ghế nơi Levy nắm – Chui vào người con Cheedar thì sẽ có thể di chuyển được, còn bức tranh thì không.
- Nghe nói ban nãy cô đã vùng vằng giận dỗi, tỏ ra không mấy hứng thú với kho báu nữa để buộc Yamaguchi phải giao nó cho cô giữ. – Veronica vuốt ve hộp nhạc nằm trên bàn làm việc của Levy. – Nhưng sự thật lão ta quả nhiên đần.
- Đừng nói thế, Vivi. Dù sao ông ta cũng mang hàm giáo sư đấy. Chỉ có điều…nó không giúp ích gì ở thế giới thiên đường thôi. Nói đơn giản, nếu giờ tôi không đi tìm kho báu đó nữa, ông ta chỉ còn nước bỏ cuộc. Vì thế mới có chuyện giao cho tôi cái hộp nhạc.
- Ta tưởng mình biết cô quá rõ, tuy nhiên từ trong mây nhìn xuống, ta thực sự bất ngờ khi thấy cô ra lệnh cho con Sprinkles hất gã đầu bò đó đi chứ không đấu kiếm với hắn.
Con mèo Cheddar nằm dài ra rồi bắt đầu liếm láp. Sự thực thì Blue Hope không hành động như thế, vì ông ta là con tàu chứ không phải mèo. Tuy nhiên ông ta không đủ mạnh để chống lại sự điều khiển của cơ thể con mèo Cheddar, vậy nên chỉ còn nước nằm im và để nó chỉnh trang bộ lông đen tuyền, 4 cái chân trắng như đi tất, cái yếm trắng trước cổ.
- Đó là chuyện khác. Thật ra lão đầu bò đó chưa bao giờ dễ tính như thế.
Cô đáp gọn lỏn. Đến đây, khuôn mặt Levy chợt biến sắc. Hình ảnh gã to con đã gây hấn với cô lại hiện ra. Cô đã bắt đầu hiểu những gì đã xảy đến với mình từ thời điểm cô chọn cập cảng ở Lanebrook. Thứ duy nhất cô còn băn khoăn là tại sao.
Mối băn khoăn đó, cho đến lúc ấy, thực sự đã khiến cô suy nghĩ lại về việc đi tìm kho báu của Heller. Veronica, ban đầu vốn trung lập về vấn đề kho báu bỗng quay ngoắt 180 độ khi cô mới động tới vấn đề từ bỏ. Nó bắt đầu giở giọng bề trên giảng giải rồi tiến đến việc khuyên nhủ lẫn ép buộc Levy phải theo đuổi đến cùng. Nó đã đẩy cô vào quá trình giải mã chiếc hộp nhạc. 
_____________
Levy mang thêm một chân nến có 5 cây vào phòng họp. Ở đó, Veronica và hai anh em sinh đôi đã chờ sẵn với chiếc hộp nhạc trước mặt. Những cái nhìn ảm đạm hướng vào cô càng khiến cô cảm thấy vô vọng. Nhưng dù sao thì cô vẫn cố tỏ ra bình tĩnh. Như thường lệ, cô kéo ghế ngồi xuống với cây kẹo ngậm trong miệng. Jeremy không nói gì, anh nhìn Levy chằm chằm rồi mở hộp nhạc, đẩy về phía cô như thể nói: “Tự cô xem đi!”
Khi Jeremy vừa mở ra thì những nốt nhạc đầu tiên của bài “The golden vanity” vang lên. Bên trong hộp là một cây sồi thật mang dáng cổ thụ cao chừng 8 inches, nhìn khá giống cây cảnh bonsai, xung quanh nó, trên thảm cỏ là lá úa và vài quả rụng. Theo giai điệu bài hát, nó xoay tròn, tất cả rễ cây gồ ghề, bướu sần sùi, tán lá, cành lá lướt qua chầm chậm dưới con mắt Levy. Thỉnh thoảng, nó còn dạt về một phía như thể có cơn gió thổi qua. Nhìn kĩ qua tán lá, không khó để nhận ra vài quả chuông nhỏ buộc trên cành cây. Thân cây là tổ hợp của những mảng vỏ xù xì, thô ráp và kỳ cục nhất là một hình trái tim khắc trên đó với dòng chữ “Trésor” bên trong. Hàng nghìn năm trôi qua kể từ khi cái hộp nhạc đến với cư dân của Hanover, không ai hiểu cái gì đã nuôi sống nó qua ngần ấy thời gian.
- Hả? Chẳng có nghĩa gì cả! Levy làm bộ mặt kỳ dị, nhăn nhó nói.
- Thế đấy, thế nên chúng tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu cả. – Thomas nằm bò ra bàn, thở dài chán nản.
- Hai người là hậu duệ trực hệ của Heller mà không thể tỏ ra có ích hơn sao, mắt cá chết?
- Cô có ý gì hả El? Thomas nhìn cô đầy thách thức. – Cô là phù thủy thuần huyết, chúng tôi cũng vậy, cô đòi hỏi gì ở những người hệt như cô trong khi cô không thể giải quyết được?
- Mà không, thật ra thì có chuyện này có thể giúp ích đấy!
Jeremy về hùa với Thomas – việc rất hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên, khác với Thomas, anh tỏ vẻ châm chọc:
- Có một câu nói của Jules mà tất cả những người nhà Heller đều biết đấy, đó là: “Tiếng kêu của hải âu là khởi nguồn của thế giới.” Thật ra đó có vẻ chỉ là trò đùa của ông ta. – Jeremy cười ranh mãnh.
- Đồ quỷ chết tiệt!
Levy chưa kịp lên tiếng thì Veronica đã nhổm dậy cốc vào đầu Jeremy.
- Thôi tôi đi ngủ. Tôi không phản đối nếu mấy người quăng nó đi hoặc vứt lại cho Yamaguchi đâu.
Levy chán nản đứng dậy. Xem ra cô còn bỏ cuộc sớm hơn 3 người kia. Cô ném cán cây kẹo qua cửa sổ rồi uể oải bước ra khỏi phòng.
Kỳ thực, lúc đó cô vẫn đang suy nghĩ về cái hộp nhạc. Nhân vật chính trong “The golden vanity” là một chàng trai trẻ làm thủy thủ trên tàu. Khi con tàu bị tấn công bởi tàu Tây Ban Nha, thuyền trưởng hứa cho anh ta vàng bạc châu báu nếu anh ta lặn xuống và làm thủng tàu địch. Anh ta đã đánh đắm tàu địch nhưng cuối cùng, gã thuyền trưởng đã bỏ mặc anh ta dưới biển. Các thủy thủ cuối cùng đã vớt anh ta lên nhưng quá muộn, anh ta chết trên tàu. Cô cảm thấy bế tắc vì không thể hiểu nổi với nội dung như vậy thì “The golden vanity” có liên quan gì đến cây sồi kỳ dị. Còn thứ mà Jeremy nói với cô, cô thề đó là cách hai anh em nhà Heller trả đũa cô sau 7 năm cô gọi họ là “đồ mắt cá chết”.
Levy thả mình rơi phịch xuống ghế đệm dài cạnh cửa sổ phòng. Lấy được “bản đồ” là việc đầu tiên, nhưng hóa ra mọi thứ lại chẳng hề đơn giản đến thế. Mọi thứ thậm chí còn kết thúc trước cả khi bắt đầu, vì đơn giản là chẳng ai biết phải bắt đầu từ đâu. Levy thở dài, cô giật miếng bịt mắt trái ra để không khí mát lạnh chạm vào nó – thứ cảm giác hiếm khi cô biết đến. Cô nhìn ra phía ngoài cửa sổ với hi vọng mấy con “đèn lồng” sẽ giúp cô cảm thấy dễ chịu hơn nhưng trái lại, tất cả bọn chúng đồng loạt run lên rồi cố hết sức bay thật nhanh khỏi tầm mắt cô.
Cô định thở dài nhưng rốt cục, cô chỉ nhún vai. Thường thì cô không mấy khi bận tâm nhưng đôi lúc, vào những khoảng thời gian bế tắc, cô lại tự ám thị rằng cả thế giới, thậm chí đến mấy con “đèn lồng” cũng xa lánh cô. Tất nhiên, chẳng phải cô là con người thích bi kịch hóa mọi chuyện hay ngẫu nhiên mà cô cho là như vậy. Đó là bí mật của cô. Trên đời, ngoài cô ra thì chỉ có Trời biết, Đất biết và Veronica biết; nó vẫn thường dùng lý do đó để chọc cô đến phát điên, đến mức cô sẵn sàng hành động như thể muốn hạ sát nó, còn nó thì đổ lỗi do cô quá nhạy cảm.  
_________________
Thêm 6 ngày con tàu lênh đênh không mục đích. Những người có mặt trong phòng họp tối hôm đó bắt đầu tỏ ra nghi ngờ. Về phần Levy, cô biết mình đã bị Yamaguchi lôi vào chuyện gì và lúc đó không phải thời điểm thích hợp để rút khỏi cuộc chơi. Tuy nhiên cô cũng thề sẽ bắt ông ta phải trả giá khi chuyện này kết thúc.
Chiếc hộp nhạc luôn được cất ở phòng họp. Suốt cả tuần, ngày nào Levy cũng ngồi lỳ trong đó, chiếc hộp nhạc để mở trước mặt, không ngừng phát bài “The golden vanity”. Tuy nhiên, việc giải mã nó hoàn toàn chẳng đi đến đâu cả, mọi thứ vẫn hoàn toàn dậm chân tại chỗ và Levy thề rằng cô bắt đầu có cảm giác điệu nhạc từ cái hộp đang chế giễu cô từng giây; nó sẽ vô cùng vui sướng nếu nó được chơi trong đám tang của cô, để nhắc lại thất bại thảm hại nhất trong 8 năm chu du của cơ trưởng El Levy. Cô đã thử mọi cách từ thông thường đến kỳ dị, như là tháo ra, quan sát những bộ phận bên trong chiếc hộp; cố gắng tìm cái công tắc mà cô cho là được giấu đâu đó ở hộp nhạc; để Veronica tạo lốc xoáy quanh nó; đào xới khoảnh vườn trong cái hộp,... Cô đã làm nhiều trò hơn thế, dù cô luôn luôn sợ rằng nếu quá lố thì sẽ khiến cái hộp nhạc bị hỏng. Dù thế, nỗi ám ảnh vì bế tắc vẫn còn nguyên.
Đó là tuần nhàn rỗi, dù không mấy vui vẻ của cơ trưởng nếu buổi chiều ngày thứ 6 Veronica không đến tìm cô với bộ mặt đăm đăm khó chịu và vô số hành động quái gở khác. Điều đó có thể thấy ngay ở việc nó đá vào ống đồng cô khi cô đang lái tàu, buộc cô phải vào phòng họp. Khi đã yên vị trong phòng thì nó thảy ra trước mặt cô một quyển sách, hay nói đúng hơn là một mớ giấy mục nát, toàn bộ mực đã nhòe nhoẹt. Tệ hơn cả, trên đó toàn những kí tự không hiểu nổi.
- Gì đây?
Levy hơi nhướn mày. Cô không ngậm kẹo và cũng không bóc cây kẹo nào lúc đó.
- Bút tích cuối cùng của Jules Heller trước khi ông ta biến mất.
- Vậy thì?
- Trong đó toàn những ký tự, dĩ nhiên là chỉ những người ở tuổi tôi đọc được, và bút tích của vài sinh vật khác nhau mà tôi không thể biết.
- Ở tuổi cô tức là không có tuổi sao?  Nhưng cái mớ giấy lộn này là sao?
- Bút tích riêng của Jules Heller nói rằng để mở được kho báu của ông ta, cô phải có một chiếc chìa khóa. Chiếc chìa khóa do dark elf giữ. Để có nó, cô buộc phải trao đổi. Dĩ nhiên, trong mọi trường hợp, trao đổi với dark elf không bao giờ là cái giá rẻ. Cách khác, cô có thể chiến đấu, nhưng gây sự với đám này thì không phải quyết định khôn ngoan. Chúng là thiên tài trên chiến trường.
Levy đứng dậy, cô bước đi chậm rãi dọc căn phòng, cố tỏ ra bình tĩnh hơn những gì cô đang cảm thấy lúc đó. Veronica nhìn cô đầy dò xét. Nó cảm thấy cô có những phản ứng rất kỳ lạ mấy ngày nay, nhưng nó không thể nào hỏi vì cô nhất định sẽ không trả lời, thậm chí còn cho nó vài con dao như mấy bận trước
- Cô nghĩ gì vậy? Veronica thận trọng hỏi.
- Cô có nghĩ Yamaguchi biết chuyện này không?
Sắc mặt Levy dần dần thay đổi theo chiều hướng xấu, cô thở gấp, hai tay run lên liên tục. Về phần Veronica, đó là câu hỏi ngớ ngẩn nhất nó có thể nhận được trong hoàn cảnh đó. Levy không phải con ả ngớ ngẩn nào đó không biết đánh giá tình hình để rồi đáp lại bằng thứ rỗng tuếch như vậy.
Veronica không đáp ngay. Nó thản nhiên giương mắt nhìn Levy, người đang quay lưng về phía nó, bám chặt vào thành cửa sổ, run lên từng hồi. Nhìn từ phía sau cũng có thể thấy cô đang vật lộn để có thể đứng trên đôi chân mình. Veronica nheo mắt, đôi môi mỏng nhếch lên cười xảo quyệt. Nó kiên nhẫn chờ Levy quay về phía mình rồi khe khẽ đếm ngược từ 5, nụ cười vẫn không biến mất. Cô nhìn nó cầu cứu nhưng nó vẫn tiếp tục màn đếm ngược và cô hoàn toàn có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra khi nó đếm đến 0. Cuối cùng, nó chậm rãi nói:
- Cô chẳng qua chỉ là con tốt thí, Elita Levy. Tiếc là cô không sống lâu hơn được nữa…
Hai tai Levy ù đi. Cô ngã vật xuống sàn.
- …dù cô cũng khá thú vị…
_____________
Levy vui vẻ trò chuyện với hai cô bạn thân. Xung quanh, không gian được trang hoàng bởi nhiều dây trang kim, lụa và nhung với ba tông màu chủ đạo đỏ, đen, trắng. Cái tên Elita được thắp sáng rực rỡ bởi hàng nghìn con đèn lồng bỗng trở nên mờ nhạt khi chiếc bánh sinh nhật với 16 cây nến được mang ra. Buổi sinh nhật không ồn ào hay lộn xộn như đáng ra nó nên phải thế, nhất là với tuổi 16 của một cô gái. Dàn nhạc vẫn tiếp tục chơi những bản nhạc cổ điển nhưng không ai phàn nàn đó là thứ nhạc của người già hoặc thứ gì tương tự: những người lớn lên ở Hanover là hình mẫu kỳ lạ đến kỳ quặc, hay nói cách khác là sự kết hợp hoàn hảo giữa kiểu suy nghĩ hiện đại và cách phản ứng có phần cổ điển.
Levy chọn mở gói quà của cha mình đầu tiên. Dù nó có kích thước khá khiêm tốn so với tất cả số hộp còn lại nhưng cô có lý do để tin rằng cha sẽ không làm cô thất vọng. Cô đã đúng khi tin là vậy, vì bên trong đó là chiếc hộp gỗ lót nhung với thứ lộng lẫy nhất cô từng được thấy: một cái vòng cổ kim cương. Levy ngay lập tức bị mê hoặc bởi màu xanh Hoàng gia huyền bí toát lên từ mặt chính – viên kim cương màu xanh khổng lồ với độ sáng và các góc cạnh được giũa hoàn hảo. Trước màu xanh đó, dây đeo rộng bản gắn hàng trăm viên kim cương trong suốt bỗng có phần mờ nhạt hơn sự tán dương nó đáng lẽ phải nhận được nếu đứng riêng.
Đến đó, mọi thứ bỗng lóe lên như tia chớp, rồi cô không còn thấy gì nữa ngoài thứ màu đen đặc quánh bao quanh mình.
Elita cựa mình, một cơn đau trong lồng ngực nhói lên khiến cô như ngừng thở, cả hai tròng mắt tưởng như sắp rơi ra ngoài sau cú thúc bất ngờ từ bên trong. Sau khi đã lấy lại được nhịp thở, cô chỉ dám nằm im nhìn trần căn phòng mình, tranh sáng tranh tối bởi vài ngọn nến gắn trên tường hoặc cắm trên chân nến ở bàn. Từ chiếc ghế đệm quen thuộc bên cửa sổ, lọt vào tầm mắt cô là hàng nghìn ngôi sao đã được thắp sáng, mấy con đèn lồng lập lờ ngoài cửa sổ. Có tiếng mở cửa, tiếng cọt kẹt. Cô biết đó là con Cheddar, nó điệu đà bước trên mấy tấm ván sàn đã bị sút ra nên âm thanh cọt kẹt mới rõ ràng đến thế. Theo sau nó là thứ gì không để lại tiếng bước chân – Veronica. Con bé đến gần ghế đệm, ngó Levy vài giây.
- Tôi còn sống bao lâu nữa? Levy khó nhọc hỏi.
Veronica không đáp. Nó tiến lại gần bức tranh cô hầu người Pháp thời Phục hưng treo trên tường, thận trọng dỡ xuống sau khi đã bắc ghế để với tới. Một cái hốc nhỏ vuông vắn treo chiếc phong linh bằng thủy tinh nằm gọn sau bức tranh. Veronica khẽ cất lên điệu nhạc khe khẽ. Đó không hẳn là khúc hát nào đó mà có phần giống bản hòa âm của mọi vật trước gió, trong đó là tiếng cành lá, tiếng dòng nước, vài điệu nhạc dân ca lẫn lộn cất lên bởi nhứng khu rừng. Chiếc phong linh đáp lại lời hát của nó bằng thứ âm thanh trong trẻo và tinh khôi nhất mà bất kỳ sinh vật nào có thể nghe được. Liền sau đó, gió từ ngoài cửa sổ nhẹ nhàng ùa vào, phong linh xoay tít: một cái đồng hồ con lắc hiện ra. Veronica xuống khỏi ghế để chủ nhân của mình có thể tự quan sát vật kỳ lạ đó. Thoáng qua, nó như thể đã bị hỏng. Mặt đồng hồ hoàn toàn không có số. Ở vị trí 12 giờ là hình vẽ của bông hoa hồng đen nhỏ xíu. Ba cái kim cầu kỳ chạy đều đều từ phải qua trái như thể đếm ngược, kim giây giật giật liên hồi, lúc đứng yên, lúc chạy rất nhanh còn kim giờ và kim phút hầu như không nhúc nhích. Điểm chốt của cả 3 kim là một bông hoa hồng đen khác – bông hoa thật. Những cánh úp khum khum vào nhau; chẳng bao lâu nữa nó sẽ nở.
- Rõ ràng là không còn nhiều thời gian.
Levy nói gọn lỏn, cô có vẻ đã đỡ đau hơn. Cô bắt đầu mở to mắt, nhún vai, làm bộ mặt thản nhiên như không có gì nghiêm trọng đang xảy ra.
- Đúng, cô còn sống chưa đầy 2 năm nữa thôi đồ đần kia! Khi bông hồng đen nở cô sẽ chết, chiếc đồng hồ sẽ điểm hồi chuông duy nhất rồi phát nổ. Đến khi tôi cho xác cô vào quan tài thì cô sẽ chỉ còn là một mớ hoa hồng đen và dây gai!
- Cô nói nghe thật bi kịch. – Levy ngồi bật dậy như chưa từng có gì xảy ra với mình. – Vậy tóm lại là lần này Hoa hồng đen đã làm gì tôi?
- Tổn thương cơ tim, tràn dịch màng ngoài tim. Nó đã mọc đến tim của cô, nhưng điều kỳ quặc là cô vẫn sống. Tôi đã cho cô uống lá và thân cây tú cầu pha với vảy rồng.
- Mọi bộ phận của cây cẩm tú cầu đều có độc mà! Levy hét lên phẫn nộ. – Nó chẳng giúp gì cho tim của tôi hết.
- Cô thôi ngay đi. – Veronica phẩy phẩy tay. – Vảy rồng là dành cho tim cô còn cẩm tú cầu là dành cho Hoa hồng đen. Nhắc mới nhớ, cô đã uống nhựa cây trúc đào pha nước mắt chim chu tước và hoàng kỳ mà vẫn sống đấy thôi. Chỉ có độc dược mới làm chậm quá trình phát triển của Hoa hồng đen trong cơ thể cô. Trong thời gian tới cô sẽ cần nhiều kẹo hơn vì có vẻ nó đang ăn đường trong máu cô. Ngoài ra, cô sẽ còn được nếm vị của Hoa hồng sa mạc, cây Đại kích, cây bạch anh độc, cây manchineel,…Hãy hi vọng là cô sẽ không chết vì ngộ độc.
- Dẹp cái danh sách chết tiệt của cô đi rồi đem hộp nhạc của Jules Heller lại đây cho tôi.
- Cô vui tính đấy. Hoàn toàn không chịu từ bỏ nó dù chính cô đã từng nói rằng chúng tôi có thể quẳng lại nó cho Yamaguchi.
- Cơ hội cuối để sống sót mà.
Levy hơi mỉm cười, con mắt phải trong veo bỗng thoáng một chút hi vọng rồi vụt mất. Cô bắt đầu nện ủng trên ván sàn, đội chiếc mũ gắn lông rồi bước ra ngoài.
______________
Levy án ngữ trong phòng họp suốt đêm hôm đó cho tới tận chiều hôm sau nhưng không đã động gì đến cái hộp nhạc. Cô chỉ đọc sách, vài quyển sách cô đã đọc khi còn nhỏ. Mẹ cô luôn nói rằng đôi lúc những thứ thuộc về tuổi thơ có thể đem lại vài gợi ý hữu ích nhưng có vẻ trong trường hợp này thì chúng hoàn toàn vô dụng, cô thầm nghĩ như vậy. Lý do đơn giản cho việc đó là từ nhỏ cô chưa từng gặp thứ gì mơ hồ: cái hộp nhạc với cây sồi nghìn tuổi. “Jules Heller luôn mập mờ, luôn luôn là thế, lão già chết tiệt!” Cô lầm bầm nguyền rủa sau khi đã đọc xong phần lớn số sách trẻ con mà vẫn chẳng tìm được thứ gì có ích.
Levy quyết định bỏ cuộc với việc lục lọi ký ức qua mấy cuốn sách. Cô gác hai chân duỗi thẳng lên bàn, đôi bàn tay đan vào nhau đặt sau gáy. Cô ngước nhìn trần nhà, liên tục kênh chiếc ghế tựa như thể đang suy nghĩ điều gì rất quan trọng nhưng kỳ thực thì cô lại bắt đầu màn độc thoại với giá treo nến trên trần:
- Ý ta là…mày đã từng gặp thứ gì kiểu như thế chưa? Quả sồi là cái gì ngoài thứ đồ ăn ưa thích của bọn sóc? Còn đống chuông ầm ĩ khó chịu trên cây nữa, mày biết chúng để làm gì không? Dĩ nhiên là mày không biết! Và cái trái tim ấy hả, ông già đó đang giễu ta vì lão có kho báu, ông ta có quyền khắc cái trái tim đó rồi viết “Trésor” vào trong, kiểu như ta yêu kho báu, ta yêu kho báu! Levy chìa môi, khoa chân múa tay đầy chế giễu – Chết tiệt! Cây sồi, quả sồi, trái tim, chẳng có nghĩa gì hết, mày thấy không! Giá mà ta đang chơi 21 ở Lanebrook thì tốt, ta sẽ dùng tiền thắng để mua scotch! Mà mày biết không,…
Levy đột nhiên dừng lảm nhảm. Cô bật thẳng người trở dậy nhưng chiếc ghế đang bị kênh khiến cho 2 chân sau của nó trượt về phía trước còn Levy thì ngã ngửa ra phía sau. Cô không cau có, gào toáng lên đá cái ghế như bình thường mà loạng choạng đứng dậy, chạy bổ về phía chiếc tủ cất hộp nhạc, lập cập mở tủ rồi lấy nó ra. Tiếng ủng nện trên sàn không dứt, cô lục tìm khắp nơi rồi lấy ra bốn tờ giấy trắng cỡ bằng bàn tay. Việc đầu tiên cô làm là dùng con dao rọc giấy cài ở thắt lưng đẽo vào thân cây sồi, đoạn có khắc hình trái tim để lấy miếng thân cây đó ra. Cô không hề lo sợ mình sẽ làm gì tổn hại đến chiếc hộp nhạc, hay nói cách khác là bản đồ kho báu. Kế đến, cô ngắt một chiếc lá, một quả sồi, tháo một cái chuông trên cành xuống. Hồi hộp, Levy hít thật sâu, vừa thầm hi vọng điều gì đó có ích sẽ xuất hiện sau khi cô thực hiện xong việc này. Cô lần lượt đặt cái lá, quả sồi, cái chuông và mẩu thân cây có hình trái tim vào từng mẩu giấy. Lập tức bốn luồng sáng nhỏ lóe lên rồi nhanh chóng vụt tắt. Tất cả như thể lặn vào những miếng giấy rồi lập tức biến thành 4 cây Daus với 4 chất bài: Lá, Tim, Chuông, Quả sồi. Nhưng đó chưa phải là tất cả những gì Levy hi vọng. May mắn cho cô, mọi thứ chưa dừng lại ở đó. Ngay sau đó, hàng loạt những lá bài ảo khác hiện ra, tạo thành một bộ bài kỳ quặc. Cô chưa kịp quan sát nó kĩ thì có tiếng gõ cửa, Levy nghe giọng Cornelius:
- Cơ trưởng, tới giờ ăn tối…
- Đồ Ngô già, gọi Veronica và hai đồ mắt cá chết lại đây! Levy to tiếng, ngắt lời anh ta.
Cornelius chỉ nhún vai. Ngoài điên rồ, thích đùa thì cơ trưởng còn nổi tiếng thất thường nên anh chẳng có gì ngạc nhiên khi nghe tiếng đổ ầm ầm trong phòng họp và sau đó thì cô ta lớn tiếng với anh. Chẳng cần ở trong đó anh cũng biết là cô ta vừa bị ngã khá đau và đang bới tung tất cả các tủ để tìm thứ gì đó.
Veronica và hai anh em sinh đôi vào phòng không lâu sau đó, họ còn đang rất bực mình vì bị Levy lôi đi ngay khi bữa tối vừa được dọn ra. Song, sự bực mình đó cũng không kéo dài được lâu khi cánh cửa phòng họp được mở ra, họ đứng trân trân nhìn Levy trong căn phòng đã sáng nến với chiếc hộp nhạc mở toang và hàng loạt là bài ảo, trong trong, mờ mờ như hơi nước lơ lửng trải ra phía trên mặt bàn.
Trong phòng họp, ba người vừa ăn tối vừa chất vấn Levy đủ thứ về hộp nhạc và bộ bài ảo. Riêng cô thì không động đến khay đồ ăn mà Cornelius đầu bếp mang cho cô.
- Làm sao cô nghĩ ra chuyện này?
Veronica lên tiếng trước tiên, nó vẫn cầm cái thìa ăn súp và dường như chỉ chực tiếp tục món súp hạt dẻ của mình ngay khi Levy giải thích xong.
- Theo lời Jerry thì Jules Heller sáng tạo là bài, những trò có liên quan đến bài như chúng ta vẫn biết lúc này. Trong lúc tôi nói chuyện với cái giá treo nến về blackjack…
- Cô nói chuyện với cái gì cơ? Thomas như thể sắp làm ngụm bia vừa uống văng tứ tung sau khi nghe Levy nói đến đó.
- Thôi đi mắt cá chết! Cô nạt – Dù sao thì… lúc đó tôi hình dung ra bộ bài, mùi giấy mới thơm tho của bộ bài, những quân rô, cơ, chuồn, bích liên tục được hạ xuống,...- Levy bắt đầu lan man – Nhưng rô, cơ, chuồn, bích chỉ là chất bài thường gặp nhất hiện nay, thứ ít gặp hơn là bài Đức với 4 chất là Tim, tương ứng với Cơ, Lá tương ứng với Bích, Quả sồi tương ứng với Chuồn và Chuông tương ứng với Rô.
- Và sau đó cô gọi ra bộ bài ảo này sao? Jerry hỏi.
- Đại loại là thế, nhưng hiện giờ tôi không biết sẽ làm gì tiếp.
Cả 4 người liếc nhìn bộ bài kỳ quặc xếp ngay ngắn, lơ lửng phía trên mặt bàn. Bộ bài chỉ gồm 39 quần, chia làm 3 loại, không kể đến các chất: một loại mang màu đỏ, một loại mang màu xanh lục, loại cuối cùng mang màu xanh lam. Nó gợi cho Levy vài liên tưởng đến bộ bài 4 màu với Bích màu đen, Cơ màu đỏ, Chuồn màu lục và Rô màu xanh lam. Tuy nhiên, liên tưởng ấy dù sao cũng chẳng giúp ích được gì vì những quân bài có màu cứ lộn xộn cả lên, chẳng cố định chất bài nào mang màu gì. Thêm lần nữa, việc giải mã chiếc hộp nhạc đi vào ngõ cụt.
Veronica và 2 anh em sinh đôi không lưu lại phòng họp lâu sau khi đã biết có chút tiến triển đối với cái hộp nhạc. Levy là người đầu tiên làm được việc đó, vì nếu không phải thế thì đáng lẽ lúc hộp nhạc đến tay họ, thân cây sồi đã phải bị khoét mất. Nhưng tiếp sau kỳ tích ấy, lại chẳng có gì đáng nói xảy ra nên đi ngủ hoặc ra boong uống rượu, hoặc đánh bài là cách hay nhất họ có thể nghĩ ra. Vì thế, họ đều rời phòng họp. Levy đóng hộp nhạc lại, những quân bài biến mất, cô mang theo nó về phòng riêng. Khi cô đặt nó lên bàn rồi mở ra, chúng lại xuất hiện. Cô tắt hết nến rồi ngồi lên thành cửa sổ, hai chân buông thõng, đung đưa trong khoảng không nối liền với mặt đất.
Buổi đêm, con tàu bay tương đối thấp. Từ cửa sổ, Levy vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy nhiều sinh vật sáng rõ trong làn nước của đại dương phía dưới mình. Hình ảnh hiện ra dưới mắt cô không bao giờ trọn vẹn, nhưng dù sao cô vẫn cúi xuống nhìn chúng như một cách an ủi đẹp đẽ cho lần sinh nhật thứ 24 của mình.
Khi ấy đã vào đầu tháng 10, thời tiết đã dịu đi nhiều nhưng gió vẫn chưa đến mức gào thét phía ngoài cửa sổ. Từ chỗ đang ngồi, đập vào mắt Levy là bầu trời sao, vầng trăng khổng lồ lơ lửng trên nền trời xanh dương, mịn như lớp nhung với những viên pha lê sáng chói, đôi lúc lại thấp thoáng vài gợn mây mỏng. Chìm trong làn nước lấp loáng ánh trăng phía dưới là khoảng sáng rộng màu cam nhạt, trải dài do một đàn sứa đông đúc đang di chuyển. Chúng có gây nguy hiểm nhưng việc nhìn những cái ô của chúng được thu lại, bật ra, những dải đuôi mềm mại như lụa trôi nổi vô định trong nước hẳn là điều gì đó rất thú vị. Đi xa hơn nữa, Levy bắt gặp cả đàn cá chuồn bay thoăn thoắt ngay phía trên mặt nước. Mấy con goblin cau có ngồi trên cái thuyền câu chơ vơ giữa đại dương thấy vậy bỗng nhảy chồm chồm lên, ra sức tát lũ cá chuồn rồi quăng chúng vào thùng chứa nước mặn để ở đó. Nhân ngư thấy xôn xao cũng trồi lên trên, len lén quan sát lũ goblin. Trong những câu chuyện Levy thường được nghe kể thì mỹ nhân ngư xem ra chẳng tốt đẹp gì: đó là sinh vật có sắc đẹp thuần khiết, rất giỏi mê hoặc người khác nhưng vô cùng độc ác,…Con người đã nói với cô cả tá điều tương tự nhưng thực ra, những nhân ngư ở đây hoàn toàn không có một chút nào, dù chỉ một xíu là ác độc. Họ là linh hồn của biển cả và nếu có thứ gì nghĩ rằng họ xấu xa thì đó là đám sinh vật hắc ám sống ở đáy vực Noir vì mỗi lần chúng phá phách thì đều bị nhân ngư trừng phạt.
Ở một triền cát nhỏ và dài giữa biển, chợ đêm của đám sinh vật huyền bí xem ra cũng mới chỉ bắt đầu. Thuyền câu, sau cả ngày lang thang trên biển, giờ nằm nghỉ gần mép nước. Chính giữa triền cát, vài cái cột gỗ được đánh bóng láng dựng thẳng đứng, phía trên đỉnh là những cái chụp trong veo hoặc là hình cầu, hoặc là hình lục lăng, phía trong là chừng 3-4 cây bạch lạp cháy bập bùng. Goblin, ma cà rồng, tiên vườn, thậm chí cả gấu, sư tử và báo đi lại tấp nập giữa những dãy bàn dài dùng để bày cá thu, cá hồi, sứa, vây cá mập, cua, tôm, hàu, sò, bào ngư,… Chợ đêm kiểu như thế thường có rất nhiều mùi tanh, dĩ nhiên là thế, nhưng hoàn toàn không thể phủ nhận sự thú vị của chúng.
Levy tựa đầu vào thành cửa nghĩ ngợi. Sau khi đã nhìn ngắm cảnh vật chán chê thì chiếc hộp nhạc lại hiện ra ám ảnh cô. Cô bắt đầu lại từ đầu với “The golden vanity” và dòng chữ khắc trên tấm biển bạc ở đáy hộp, bởi dù sao cũng chẳng còn manh mối gì tốt hơn ngoài chúng, dĩ nhiên là câu nói của 2 anh em nhà Heller cũng được tính vào số “vô dụng”. Lúc ấy, lọt vài tai của Levy là một thứ âm thanh vượt lên cả tiếng ồn ào vọng lại từ phía sau của chợ đêm – tiếng của bầy hải âu bay phía trên tàu Blue Hope. Levy đưa mắt mơ màng nhìn chúng, cô nghe loáng thoáng bên tai câu nói nửa đùa nửa thật của 2 anh em sinh đôi.
- Rõ ràng là…
Levy vừa định nói ra điều gì đó châm chọc thì chợt giật mình. Cô hấp tấp trèo vào trong phòng hệt như lúc cô phát hiện ra điều kỳ lạ ở chiếc hộp nhạc. Hàng loạt quyển sách được lôi ra khỏi giá dưới gầm ghế đệm, giở lướt sơ sài rồi quăng xuống đất. Với đôi mắt mở to, Levy trong có vẻ căng thẳng, cô liên tục lẩm bẩm điều gì đại loại như: “Nó nhất định phải ở đây, nhất định là thế!” Cuối cùng thì cô cũng tìm được thứ đáng giá nhất trong ngày hôm nay, và dù sao vẫn chưa quá 12 giờ, có thể coi đó như sự an ủi cho sinh nhật lần thứ 24 của cô. Levy ôm lấy cái hộp nhạc, lao ra khỏi phòng, cánh cửa bật mạnh ra phía ngoài khiến nó thúc vào Jeremy Heller, đúng lúc anh ta đang bê một đĩa súp nóng. Tất cả đổ ụp lên người anh ta, còn sau đó thì Levy chỉ nghe thấy tiếng thét vừa đau đớn vừa tức giận rồi nhìn anh ta bằng con mắt hối lỗi. Dù sao cũng chẳng có nhiều thời gian nữa, cô bảo anh ta đi lau sạch, dùng thuốc bỏng rồi vào phòng họp. Thông thường thì anh ta sẽ còn tiếp tục gào tướng lên, quở trách cô nhưng nhìn vẻ mặt của cô ngay lúc đó thì anh ta hiểu làm như vậy sẽ tự khiến mình bị trừng phạt bởi những trò quái gở chỉ có Levy mới nghĩ ra.
____________
Chiếc hộp nhạc lại được mở ra, đặt trên bàn trong phòng họp, mấy quân bài ảo trải khắp mặt bàn như thế trêu ngươi cả 4 người có mặt ở đó. Thomas Heller kéo một tấm bảng lớn đến dựng lên cửa sổ phòng họp. Levy đi lại trong phòng, cô có phần nghi ngờ những gì mình vừa thoáng nghĩ tới nhưng vào thời điểm đó, sự thực là chẳng còn giả thiết nào phù hợp hơn được nữa.
- Mắt cá chết, điều cậu nói lần trước không phải do cậu bịa ra đấy chứ?
- Về tiếng kêu của hải âu ấy à? Dĩ nhiên là không! Một trong hai anh em lên tiếng – Đó là điều mà tất cả những người mang họ Heller đều biết. Tuy nhiên, chẳng ai biết nó để làm gì.
- Tôi biết nó để làm gì đấy.
Levy hơi nhướn mày, chậm rãi bước đi vòng quanh phòng họp với một quả táo xanh trong tay. Cô tung lên tung xuống liên tục.
- Cậu! Cô chỉ vào Thomas – Giả làm tiếng kêu của hải âu cho tôi.
- Cái quái gì thế!
Thomas kêu lên phẫn nộ. Tuy nhiên, anh không còn cách nào khác ngoài việc làm theo lời Levy. Dù đôi lúc, cô ta quái gở nhưng mọi việc cô ta làm lúc nào cũng có lý do và lúc nào cũng đưa đến kết quả như mong đợi. Sau khi Thomas đã giả làm tiếng kêu của hải âu, cô nhìn sang Veronica hỏi với vẻ dò xét lẫn tin tưởng:
- Cô có ý kiến gì không?
- Cô đùa tôi chắc? Cô có nghiêm túc không đấy? Veronica cau có. – Ý cô là thứ khoa học hiện đại điên rồ sao?
- Không phải “khoa học hiện đại điên rồ” mà là vật lý lượng tử, nói chính xác là như thế đấy.
Hai anh em sinh đôi hoàn toàn không hiểu Levy và Veronica đang nói đến thứ gì, đơn giản là vì họ chưa từng đặt chân đến thế giới nào khác, chiều không gian  nào khác ngoài Hanover. Còn Levy, xuất thân của cô hoàn toàn bí mật nên việc cô biết rất nhiều thứ ở Hanover hoặc không phải ở Hanover đều gây  tò mò rồi lắng xuống ngay lập  tức.
- Một trong những hạt sơ cấp cấu tạo nên vật chất phải kể đến là hạt quark. – Levy nói tiếp. – Tên của nó được mô phỏng từ tiếng kêu của hải âu. Như vậy, về câu nói của Jules Heller: “Tiếng kêu của hải âu là khởi nguồn của thế giới.”, có thể hiểu ông ta muốn ám chỉ hạt quark.
- Cô không nghĩ thế là vô lý sao? Jeremy hỏi lại. – Jules Heller sống cách chúng ta mấy nghìn năm, làm sao ông ta có thể biết những thứ khoa học điên rồ này?
- Có thể sẽ không điên rồ nếu ông ta tìm ra quark trước con người. Các cậu hi vọng gì ở một phù thủy, không chỉ là phù thủy tầm thường mà còn kiến tạo toàn bộ Hanover và để lại cả kho báu hàng nghìn năm nay chưa ai tìm ra? Đó là vì trước đây làm gì có ai biết đến sự tồn tại của quark! Mà dĩ nhiên, tôi cũng nghi ngờ, cho đến khi tôi nhận ra điều này.
Levy dừng lại, cô ngồi xuống ghế để gọt quả táo.
- Cái quái gì vậy? Cô làm ơn nói tiếp được không? Veronica tỏ ra nôn nóng.
Levy tiếp tục, càng lúc cô càng nói nhanh, như thể một giáo viên đang cố hết sức những gì cần nói trong mấy phút cuối giờ. Ba người hoàn toàn không có ý niệm gì về vật lý lượng tử càng lúc càng lúng túng và sau cùng họ mặc định những gì Levy nói là tiếng ồn.
- Có 6 loại quark, mỗi loại quark lại có 3 màu, thật ra đó là tính màu tích của chúng và thế nào đó lại chính là 3 màu trên các quân bài kia: đỏ, lục, lam. Hệ thống tương tác đẩy và hút giữa các quark cùng với sự tổ hợp khác nhau của ba màu tích được gọi là tương tác mạnh, các hạt trung tải lực được gọi là hạt gluon. Dù sao thì tôi cũng thấy sự  vận động của gluon khá giống trò pinball. Theo Sắc động lực học lượng tử thì một quark với một giá trị màu tích có thể tạo thành một hệ đóng với một phản quark mang phản màu tương ứng; ba quark, ứng với mỗi màu cũng tạo thành một hệ đóng. Kết quả của đám quark hút nhau đó sẽ tạo thành một màu trung tính, nói cách khác là màu tích “0” hay màu “trắng”. Một quark và một phản quark tạo thành hạt meson, 3 quark tạo thành hệ đóng gọi là hạt baryon. Thật ra, tôi nghĩ là tôi đã bỏ sót mất hạt phản baryon, nhưng dù sao mấy người cũng chẳng cần biết đến nó làm gì! Comprends?
- Cô có hiểu những gì El nói không? Thomas quay sang  nhìn Veronica vẻ cầu cứu.
- El, thật ra tôi thắc mắc điều này từ rất lâu! Jeremy dò xét nhìn Levy – Thậm chí chúng tôi còn chẳng biết cô là ai và tại sao cô biết những thứ này. Cô thậm chí đã sống sót thoát khỏi Meurt, cô là nữ giám sát viên trẻ nhất ở Hội đồng, cô đã đến vùng trời phía Bắc, người ta tưởng cô đã chết nhưng cô lại lù lù hiện về như hồn ma. Cô có phải quỷ không? Vì nếu cô là thế thì tôi sẵn sàng ném cô qua mạn tàu luôn đấy.
Levy ăn miếng táo đầu tiên – cũng là thứ đầu tiên cô ăn từ sau khi thức dậy sau cơn đau kỳ quái trong lồng ngực. Cô làm bộ suy tư rồi nói:
- Cũng có thể đấy. Thật ra tôi chẳng nhớ gì về quãng đời trước đây cả. Hình như tôi từ trên trời rơi xuống, đầu bị đập vào cành cây nào đó nên bây giờ mới thành thế này. Dù sao thì…- Cô lại đứng lên, cầm lấy viên phấn rồi đi về phía bảng. – Nếu tôi là quỷ thì cậu có ném tôi qua mạn tàu tôi cũng chẳng chết.
Levy bắt đầu viết những công thức kỳ quái lên bảng rồi lẩm nhẩm trong miệng điều gì đó như thể đọc thần chú trong khi ba người còn lại có phần nhàn rỗi khi chỉ phải ngồi nhìn cô lia phấn trên bảng với ánh mắt khó hiểu đến khi những nét trắng kín đặc bảng.
- Merde! Ước gì Yamaguchi ở đây. – Levy thở hắt ra.
- Có gì không ổn sao? Veronica hỏi.
- Không, chỉ là tôi sẽ mất nhiều thời gian hơn ông ta, ông ta là nhà vật lý thiên thể từ Đại học Cambridge, nếu tôi phải nhắc lại thêm lần nữa. Dĩ nhiên ông ta sẽ hiểu rõ những thứ này hơn tôi.
- Cô có cho tôi ăn bạt tai không nếu tôi hỏi cô điều này, El? Rốt cục Yamaguchi là thế nào với cô? Thomas lún sâu vào chiếc ghế bành, cốc scotch đung đưa trong tay.
- Khó nhận ra đến thế sao? Trước khi là cơ trưởng của các cậu thì tôi làm việc trên tàu của ông ta chừng 1 năm. Tôi cũng không biết nhiều chuyện về ông ta lắm nếu tôi không thân thiết với con gái của ông ta.
- Con gái sao?
Jeremy cau mày. Anh tỏ ra hơi ngạc nhiên vì hiếm có không tặc nào mang theo người thân trên tàu, bởi khả năng bị sát hại hoặc bị bắt làm con tin là rất lớn.
- Đúng thế. Trước khi đến đây, trở thành giám sát viên của Hội đồng thì ông ta là một Giáo sư, quốc tịch gốc là Nhật Bản nhưng vì nhiều đóng góp với Vương quốc Anh nên mới được thưởng quốc tịch thứ 2. Mọi chuyện sẽ không bi kịch đến thế nếu ông ta không quá bận rộn với công việc nghiên cứu của mình, đến mức không có thời gian cho gia đình. Vợ ông ta đã bỏ đi, để lại 2 cô con gái, cô chị 15 tuổi vào năm đó còn cô em gái 3 tuổi. Một năm sau, vào một ngày mưa, người ta gọi điện đến văn phòng Yamaguchi báo với ông ta rằng xác cô chị được tìm thấy trên hè đường Huntingdon, nguyên nhân tử vong được xác định là do dùng ma túy quá liều. Khỏi phải nói, ông ta suy sụp hoàn toàn. Sau khi lo tang lễ xong, ông ta nhờ người làm vài thứ giấy tờ và dùng ảnh hưởng để đưa mình cùng cô con gái út – Hanabi – tới Hanover và…như các cậu thấy hiện nay, ông ta là không tặc. Hanabi luôn luôn ở cạnh ông ta, kể cả trên tàu không tặc với đám người, đa phần là nam, chỉ biết đến uống rượu đánh đấm. Việc tôi được nhận lên tàu của ông ta cũng phần nào do nó mè nheo với ông ta, bởi sự thật là ban đầu, ông ta không tin là tôi sẽ có ích.
Căn phòng có phần im lặng. Nếu chỉ nhìn bộ dạng Yamaguchi thì không ai nghĩ ông ta lại có một quá khứ dữ dội như vậy. Levy chợt đọc thấy điều gì trong mắt hai anh em sinh đôi nên cô cũng không muốn nói thêm đến những mất mát mà ông già đã trải qua bởi điều đó có thể khiến hai gã “ủy mị nhớ lại chuyện trước kia” – theo lời Levy. Cách nói của cô có phần cạnh khóe, tuy nhiên đó chỉ là cách cô thường dùng để nói nửa thật nửa đùa cũng như che giấu những gì cô thực sự đang nghĩ.
- Nhưng có phải ông ta hơi bị…  
Thomas chợt lên tiếng, anh ta làm bộ trợn ngược mắt lên, ngón trỏ chỉ vào đầu mình rồi xoay xoay.
- Ông ta hơi ấm đầu,  dĩ nhiên là thế rồi.